Tạo bứt phá cho Vùng kinh tế trọng điểm phía nam

Dù đạt được nhiều kết quả nổi bật nhưng về tổng thể sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm phía nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của từng địa phương và cả vùng. Trong bối cảnh mới, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế sâu rộng, vùng đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như những khó khăn đan xen.
0:00 / 0:00
0:00
Một góc của Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay. (Ảnh: HOÀNG TRIỀU)
Một góc của Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay. (Ảnh: HOÀNG TRIỀU)

Theo các chuyên gia, Vùng kinh tế trọng điểm phía nam nói chung và vùng Đông Nam Bộ nói riêng đã có những chuyển biến hết sức tích cực, đã đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội. So với cả nước, vùng tuy chỉ có 8% diện tích và 17% dân số, nhưng từ nhiều năm nay sản xuất của vùng đạt hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 40%, tăng trưởng kinh tế bình quân gấp hơn 1,5 lần, thu ngân sách chiếm khoảng 44% tổng thu ngân sách của cả nước, thu hút 56% số dự án và 45% số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Vùng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội, hội tụ đủ điều kiện và lợi thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài ra, vùng tập trung nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học, nguồn nhân lực dồi dào và có kỹ năng khá, trung tâm đầu mối dịch vụ và thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế...

Tuy đạt được nhiều điểm nổi bật nêu trên, song tăng trưởng kinh tế của Vùng kinh tế trọng điểm phía nam chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém cần giải quyết. Cụ thể, từ năm 2018 đến nay, tốc độ tăng trưởng toàn vùng bắt đầu có xu hướng chậm lại, không đáp ứng so với mục tiêu đề ra.

Trong phát triển công nghiệp, vùng có 35 sản phẩm chủ yếu thì có đến 28 sản phẩm truyền thống, giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ gia công còn cao. Vùng chưa có thêm các sản phẩm mới có hàm lượng chất xám, kỹ thuật cao, hàm lượng giá trị gia tăng cao.

GS, TS Vũ Tuấn Hưng, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ cho biết: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến vùng chưa phát triển như kỳ vọng; trong đó, rào cản lớn nhất là Hội đồng Vùng kinh tế trọng điểm phía nam không có đủ thẩm quyền để bảo đảm chỉ đạo các tỉnh, thành phố trong vùng phải chấp hành các quyết định của vùng. Kết cấu hạ tầng liên vùng còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Tiềm lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa đạt mục tiêu, chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội vùng...

Do đó, để phát triển nhanh và bền vững, các chuyên gia đề xuất vùng cần xây dựng các chính sách định hướng theo lợi thế, đặc trưng phát triển chung của vùng. Bởi, vùng thiếu sự hỗ trợ bằng những chính sách cần thiết, nhất là cơ chế, chính sách đặc thù. Ngoài ra, ngân sách để cho vùng đầu tư, phát triển cho các dự án mang tính chất nội vùng và các hoạt động của toàn vùng còn thiếu; ngân sách thực hiện các dự án được quản lý và điều phối ở quy mô cấp vùng hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phát triển.

TS Trần Thị Thu Hương, Viện Nghiên cứu phát triển bền vững vùng (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng: Giai đoạn 2021-2030, rất cần ban hành cơ chế, chính sách đặc thù cho Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, nhất là các chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các công trình kết nối giao thông vùng, kết nối các khu công nghiệp, các khu vực kinh tế động lực của vùng với cảng biển, hàng không...

Vùng cần được thử nghiệm các cơ chế, chính sách sáng tạo, hấp dẫn đối với các dự án quy mô vùng, các dự án do các địa phương trong vùng đề xuất nhằm bảo đảm thu hút các địa phương tích cực hợp tác. Ngoài ra, chức năng của Hội đồng Vùng kinh tế trọng điểm phía nam cần được điều chỉnh theo hướng tăng cường vai trò, thẩm quyền và được bố trí đủ nguồn lực để thực hiện được trọng trách “điều phối” hoạt động liên kết giữa các địa phương trong vùng.

Theo ông Bùi Duy Hoàng, Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Vùng kinh tế trọng điểm phía nam cần xác định lại ngành công nghiệp mũi nhọn, sản phẩm công nghiệp mũi nhọn, sản phẩm chủ lực của vùng để hình thành chuỗi liên kết sản phẩm tạo ra bước đột phá trong cung ứng và tiêu thụ sản phẩm.

Đồng thời, xây dựng các chỉ tiêu công nghiệp rõ ràng, trọng tâm... tránh tình trạng xây dựng các chỉ tiêu rập khuôn giữa các địa phương trong vùng. “Liên kết vùng để tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là một nhiệm vụ mới, đòi hỏi phải có định hướng mới trong phân công và hợp tác giữa các địa phương”, ông Duy Hoàng nói.

Cũng theo các chuyên gia, để tạo ra sự khác biệt, các tỉnh, thành phố trong vùng cần đẩy mạnh công tác thu hút các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới và ưu tiên các dự án công nghệ cao.

Muốn làm được điều này, đòi hỏi các địa phương phải không ngừng vận động, không ngừng đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hành chính, tạo điểm nhấn, tạo hiệu ứng tốt cho các nhà đầu tư. Đồng thời, tăng cường thu hút nhân tài phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa Vùng kinh tế trọng điểm phía nam trở thành đại đô thị thông minh, hiện đại; tạo luồng sinh khí mới, giúp kinh tế toàn vùng phát triển lên tầm cao mới.