Lâu nay, ai cũng hiểu Tam Nông như một huyện nghèo nhất tỉnh Phú Thọ. 20 xã và một thị trấn trong huyện chỉ có ba xã đồng bằng, còn lại là các xã miền núi thấp, ruộng đồng xen kẽ đồi. Năm 1999 bình quân lương thực đầu người chỉ đạt 220 kg. Trên đồi, cây bạch đàn lấn cây sơn, cây sắn. Thiếu đói và nghèo là con bệnh kinh niên. Thế mà ngày nay Tam Nông đã bật dậy, bỏ qua đói nghèo đang vươn lên làm giàu bằng chính mảnh đất tưởng như khô cằn, chiêm khê mùa thối ấy...
Mùa này về Tam Nông, chúng tôi thấy một mầu xanh no ấm đang phủ kín khắp làng quê từ dải đất bãi ven sông đến miền đồi bát úp.
Tam Nông chuyển mình thật đáng ghi nhớ. Chỉ trong vòng năm năm trở lại đây, Tam Nông như có sức bứt phá lạ thường. Sản lượng lương thực tăng hơn 9.000 tấn, bình quân lương thực đầu người từ 220 kg tăng lên 350 kg. Đàn cá tăng hơn 300 tấn. Giá trị thu nhập một ha từ 9,8 triệu đồng tăng lên 18,7 triệu đồng. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 20%, đàn bò từ 8.700 con tăng lên 14.000 con. Cây sơn, một thế mạnh của Tam Nông, từng nổi tiếng trong nước và ngoài nước, đã có một thời mai một "bạch đàn lấn sơn" nay đã tìm lại được chỗ đứng của mình.
Đằng sau những con số ấy là sự chuyển động của làng quê muốn thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất tưởng như khó khăn, khó bứt dậy làm giàu được.
Mỗi làng, xã tìm ra thế mạnh của mình. Từng hộ nông dân tìm ra "năng khiếu" riêng trong trồng trọt, chăn nuôi. Đó chính là hướng phát huy nội lực của Tam Nông. Thế là làng, xã, phát huy được tiềm năng, hộ nông dân khơi dậy được tính tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Ruộng trũng trở thành ao nuôi thả cá. Đất sắn đi vào thâm canh. Đồi bạch đàn trả lại đất cho cây sơn. Gò đồi xen kẽ là thế mạnh để phát triển đàn bò. Đất ven đồi thiếu nước chuyển sang trồng cỏ chăn nuôi. Đất bãi sông trở thành cánh đồng ngô đông với giống lai có năng suất cao. Vùng đồi khuyến khích các hộ lập trang trại trồng sơn, nuôi bò. Vùng ven sông mở hướng để nông dân thực hiện cánh đồng 50 - 70 triệu đồng/ha/năm... Tất cả những chuyển động nằm trong năm chương trình của huyện vừa giải quyết vấn đề an toàn lương thực, nỗi bức bách của người dân, vừa phát huy tiềm năng của vùng gò đồi lại có nhiều đầm ao, đất trũng bằng các chương trình thủy sản, nuôi bò thịt, bò sữa và chương trình cây sơn.
Hằng năm, Tam Nông gieo cấy hơn 4.500 ha lúa, 1.400 ha ngô và 560 ha sắn... làm thế nào để trên diện tích này nuôi sống được hơn 80 nghìn người dân trong huyện và không những thế còn có một phần lương thực hàng hóa. Năm 1999 năng suất lúa chỉ đạt 39 tạ một ha, sản lượng lương thực đầu người chỉ đạt 220 kg, nếu tính sản lượng lương thực cây có hạt chỉ đạt hơn 190 kg. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc người nông dân Tam Nông vẫn thiếu và đói.
Giải quyết vấn đề an toàn lương thực vẫn là "cái gốc" một vấn đề bức xúc bấy lâu nay mà Tam Nông coi đây là chương trình "đón đầu". Đất trồng lúa, ngô, sắn của Tam Nông chỉ bó gọn gần 6.000 ha, không có khả năng mở rộng, thậm chí một phần đất chiêm trũng lại chuyển sang nuôi thả cá. Làm thế nào để bứt phá được vấn đề lương thực? Tam Nông biết rõ năng suất lúa, ngô còn rất thấp là khâu đột phá bằng biện pháp chủ yếu là thay đổi cơ cấu mùa vụ, đưa giống mới có năng suất cao thay giống cũ và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới. Xưa vụ chiêm nông dân vẫn gieo cấy bốn trà, trà chiêm đồng chiếm 8 - 12% diện tích, trà xuân chính vụ còn chiếm 28 - 32%, trà xuân sớm lại gieo bằng giống dài ngày, trà xuân muộn chưa trở thành trà lúa chính. Nay vụ xuân chỉ còn hai trà lúa chính cấy bằng giống có năng suất cao, trà xuân sớm chiếm 47%, trà xuân muộn chiếm 55% diện tích. Tất cả trà xuân muộn được áp dụng công nghệ gieo mạ che phủ ni-lông bảo đảm mạ cấy đúng thời vụ.
Cùng với cây lúa, cây sắn đi vào thâm canh với giống năng suất cao gấp đôi, gấp rưỡi giống cũ. Cây ngô không còn luyến tiếc giống địa phương. Nay tất cả trà ngô được trồng bằng giống mới P11, VN10, VN12 và trồng ngô bầu đã trở thành tập quán nông dân Tam Nông.
Quả là "có thực mới vực được đạo", giải quyết an toàn vấn đề lương thực, Tam Nông như vững bước trên con đường phá thế độc canh, làm giàu bằng các chương trình thủy sản, nuôi bò thịt, nuôi bò sữa và cây sơn.
Những cánh đồng chiêm trũng, những đầm sâu không bao giờ cạn nước, xưa là nỗi nhức nhối trong mỗi làng quê bởi hễ mưa, lũ tiểu mãn là lúa ngập chìm và lúc cấy, khi gặt đỉa bu đầy chân. Nay, vùng đất ấy lại trở thành thế mạnh của Tam Nông, bởi vùng đất này trở thành những ao nuôi cá, và những đầm thả cá. Tam Nông có gần 1.450 ha mặt nước có khả năng nuôi thả cá, đến nay mới đưa 530 ha vào nuôi thả mà đã trở thành nguồn thu lớn cho nông dân. Năm 2004, Tam Nông thu được 965 tấn cá, đem lại nguồn thu 9,5 tỷ đồng. Hàng trăm hộ nông dân có nguồn thu đáng kể từ nuôi trồng thủy sản.
Người Tam Nông nuôi trồng thủy sản theo cách riêng, bắt nguồn từ đồng đất quê mình. Thượng Nông, xã đồng bằng rốn nước của huyện, xưa thu cá sau mùa nước rút trên đồng chiêm trũng. Nay người Thượng Nông nuôi cá thâm canh. Cánh đồng chiêm trũng xưa, nay là đồng cá. Ao nọ kế tiếp ao kia. Hơn 100 hộ nuôi cá công nghiệp đã đem lại một nguồn thu không nhỏ, nhiều hộ khấm khá lên từ nghề nuôi cá. Còn nhiều hộ khác ở Tam Nông lại nuôi thả cá trên những đầm lớn, những đầm nằm giữa hai dãy đồi mà không bao giờ cạn nước. Người ta mua cá giống về thả và năm này sang năm khác đánh tỉa thả bù, không phải cho ăn mà dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên. Cách nuôi này không những có một nguồn thu không nhỏ mà còn có những loại cá đặc sản thật hiếm hoi.
Chúng tôi về Thọ Văn, thăm một gia đình nuôi thả cá đánh tỉa thả bù. Đó là chị Nguyễn Thị Tâm, 46 tuổi. Nhà chị ở ven đồi, đầm Thọ Văn ngay trước nhà chị. Chị cho biết chị nhận thầu đầm Thọ Văn đã gần 10 năm nay, về mùa nước đầm rộng hơn 30 ha, cá thả từ năm này sang năm khác. Mỗi năm gia đình chị thả bốn tấn cá giống và thu 10-15 tấn cá thịt và 10 tấn hạt sen, trừ chi phí cũng còn lãi năm ba chục triệu đồng. Nhưng chúng tôi lại ghi mãi dấu ấn về câu chuyện chị kể cứ đến mùa thu hoạch là người từ Thanh Sơn về, người từ Hà Nội lên chờ để mua cá của gia đình chị. Bởi ở đây có những con chép nặng vài ba kg và có trắm đen nặng 22 kg. Vụ thu hoạch cá trước và sau Tết Ầt Dậu vừa qua, gia đình chị thu hàng trăm con cá trắm đen, trong đó có 30 con nặng từ 5 đến 18 kg, ba con nặng trên dưới 20 kg và một con nặng 22 kg. Quả là cá trắm, cá chép nơi đây trở thành đặc sản quý mà ít thấy nơi nào có được.
Con bò và cây sơn là những chương trình kinh tế của Tam Nông, bắt nguồn từ tiềm năng đất đai và kinh nghiệm của nông dân. Nuôi bò thịt vỗ béo và phát triển cây sơn hoàn toàn dựa vào nguồn lực trong dân chưa có sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước mà hiệu quả lại bất ngờ. Xưa, người Tam Nông nuôi bò để cày cấy, nay nuôi bò để lấy thịt và bán trên thương trường. Cả huyện có 14.000 con bò, tăng 5.300 so với năm 1999. Xã Hiền Quan mỗi hộ có hai con bò, xã Cổ Tiết mỗi hộ có ít nhất một con bò. Không những số lượng đàn bò tăng mà chất lượng đàn bò cũng có bước ngoặt. Tỷ lệ bò lai sin chiếm 32% tổng đàn. Các xã chọn 637 con bò nái nền để lai với bò sin. Nhiều người mua bò gầy từ các nơi về để vỗ béo chỉ trong vài ba tháng bán ra mỗi con cũng thu lãi từ 500 đến 700 nghìn đồng. Chăn nuôi bò ở Tam Nông đang trở thành một nghề và là nguồn thu nhập quan trọng đối với mỗi gia đình nông dân. Bởi vậy, nông dân Tam Nông không chỉ trông vào nguồn cỏ tự nhiên mà họ chuyển những ruộng chiêm khô mùa thối sang trồng cỏ voi nuôi bò. Toàn huyện có tới 77 ha cỏ voi. Tính ra hai sào cỏ voi nuôi hai con bò mỗi năm lãi 5 triệu đồng. Nếu để hai sào ấy trồng lúa, trồng khoai, lãi lờ chẳng thấm vào đâu. Tam Nông ngày nay đang trở thành thị trường bò thịt. Người các nơi về đây chủ yếu là Hà Nội lên mua bò, giết mổ đưa về xuôi.
Cây sơn, một cây truyền thống của Tam Nông có thị trường ở Nhật Bản, Trung Quốc sau nhiều năm mai một, nay đang đà phát triển bền vững. Trước năm 2000 chỉ có bốn xã trồng sơn, nay diện tích trồng sơn đã mở rộng ra 13 xã, diện tích trồng sơn từ 92 ha nay mở rộng lên 402 ha, trong đó 187 ha đang khai thác. Cây Sơn hồi phục nhanh bởi giá sơn trên thị trường thế giới có lợi cho người trồng sơn và huyện có cơ chế mở, khuyến khích người trồng sơn bằng biện pháp giao đất cho mỗi hộ từ 5.000 đến 15.000 m2, tùy theo quỹ đất đai của từng xã để nông dân trồng cây sơn. Vì vậy, từ vài trăm hộ, nay Tam Nông đã có 3.200 hộ trồng sơn. Huyện xây dựng kế hoạch đưa diện tích sơn lên 600 ha trong những năm tới và xây dựng kế hoạch phát triển sơn bền vững theo tinh thần xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu sơn Tam Nông; xây dựng quy trình kỹ thuật từ gieo trồng, thu hoạch, sơ chế, bảo quản sơn. Bước mở đầu, huyện đã xây dựng trại giống sơn, ươm chọn giống sơn đỏ, sơn lá sim là giống tốt và bước đầu nhân giống vô tính theo phương pháp ghép được 1.500 cây nhằm tạo ra một dòng sơn có năng suất cao.
Làm việc với Bí thư Huyện ủy Tam Nông Đặng Văn Vũ, chúng tôi thật sự xúc động bởi hai tiếng "khát khao" mà anh tâm sự với chúng tôi: anh nói "Chúng tôi khát khao nông dân có nghề thủ công, Tam Nông có làng nghề và những xưởng cơ khí nhỏ".
Tôi biết anh Đặng Văn Vũ từ hơn hai mươi năm trước. Là một kỹ sư nông nghiệp, anh đã gắn bó với làng quê Tam Nông cũng là quê hương anh từ năm 1978 đến nay. Anh thấu hiểu đồng đất, làng quê và con người Tam Nông như hiểu chính mình và hiểu người Tam Nông đang nghĩ gì và ước muốn của họ ra sao. Tam Nông đã thoát được nghèo, ấm được dạ dày, cây lúa, cây ngô, cây sơn, con cá, con bò đã có đường đi, nước bước. Đành rằng phía trước còn nhiều việc phải làm, nhưng làng quê thiếu nghề thủ công khác nào con người chỉ đi có một chân. Bấy lâu nay, Tam Nông là huyện thuần nông, không có nghề thủ công truyền thống, không có làng nghề. Lẻ tẻ ở Thanh Uyên, Tam Cường có vài trăm hộ làm nghề mộc, mây tre đan nhưng tiếng tăm chỉ gói gọn trong lũy tre làng. Ở thị trấn Hưng Hóa chỉ có vài xưởng thủ công với mấy chục công nhân. Còn công nghiệp là con số không. Chính vì lẽ đó mà Tam Nông khao khát có nghề thủ công và cơ khí nhỏ trong làng xã, coi đó là bước đi đầu tiên như chìa khóa mở đường cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Và chiếc chìa khóa ấy như một bài toán đang chờ lời giải ở phía trước.