Vùng đã từng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 10%/năm, nhưng giảm dần hơn 10 năm gần đây, duy trì trung bình 7-8%/năm, và giảm sâu trong năm 2020-2021 do đại dịch Covid-19. Sức hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của vùng cũng có dấu hiệu suy giảm trong những năm qua khi quy mô trung bình/dự án FDI toàn vùng chỉ khoảng 10 triệu USD, thấp hơn mức bình quân cả nước 12,42 triệu USD.
Tăng trưởng của vùng Đông Nam Bộ chậm dần do nhiều điểm nghẽn. Cụ thể, cơ sở hạ tầng giao thông của vùng chưa hiện đại, chưa mang tính nối kết liên vùng nên gây ách tắc và quá tải giao thông dẫn đến chi phí logistics cao, ảnh hưởng đến chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Đông Nam Bộ là vùng công nghiệp lớn nhất nước, nhưng chủ yếu vẫn là công nghiệp gia công, dựa vào nguồn nhân lực lao động trình độ trung bình hoặc thấp, nhất là chưa có sản phẩm công nghiệp nổi tiếng trong khu vực và thế giới.
Vùng đã có Nghị quyết chung về phát triển kinh tế-xã hội toàn vùng, nhưng các địa phương trong vùng chưa có chiến lược chung rõ ràng để phát triển. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước, không khí, rác thải y tế vẫn là vấn đề bức xúc trong xã hội. Vai trò của khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số nhìn chung chưa đóng góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế và đời sống nhân dân.
Vùng có tỷ lệ đô thị hóa cao, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai đang thu hút hơn 40% lao động nhập cư nên tạo áp lực về cơ sở hạ tầng đô thị, cơ sở hạ tầng xã hội… Đây là những hạn chế, thách thức đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển, cũng như vai trò mang tính lan tỏa, động lực của vùng Đông Nam Bộ đối với cả nước.
Trước bối cảnh vùng Đông Nam Bộ gặp nhiều khó khăn, thách thức, tốc độ tăng trưởng chững lại, vấn đề đặt ra là cần có những cơ chế, giải pháp vượt trội nào để “khơi thông” các điểm nghẽn. Các chính sách, chiến lược nào cần được các cấp, các ngành, các địa phương trong vùng ban hành để cơ cấu lại, hay thực hiện tái cấu trúc trung hạn, dài hạn.
Ngày 7/10/2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, nhấn mạnh đến quan điểm “Đông Nam Bộ phải là vùng phát triển năng động, trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại dịch vụ, giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hàng đầu cả nước và khu vực Đông Nam Á, giữ vai trò quan trọng trong liên kết phát triển với các vùng kinh tế khác”.
Để thực hiện quan điểm trên, vấn đề cấp thiết hiện nay là các địa phương trong vùng, cùng các bộ, ngành liên quan cần thực thi tái cấu trúc vùng theo hướng kiến tạo cơ chế vượt trội, tạo động lực cho vùng phát triển nhanh, bền vững. Tái cấu trúc vùng phải dựa trên đổi mới sáng tạo, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao tính hiệu quả quản trị toàn vùng nhằm phá vỡ các điểm nghẽn.
Đồng thời, vùng cần kiến tạo hệ sinh thái hiệu quả cho việc chuyển đổi và phát triển các ngành, các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh theo hướng tiếp cận hiệu quả, gắn với đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ 4.0. Các địa phương cùng phối hợp phát triển vùng hướng đến mở rộng không gian và từng bước hình thành khu siêu kinh tế, xây dựng trung tâm logistics kết nối vùng để phát huy lợi thế về độ mở thương mại của vùng…