Sự lồi lõm trong thế giới phẳng (phần cuối)

Vượt lên vùng lõm

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã có sự phát triển liên tục trong 20 năm qua. Tuy nhiên, điều đó chưa làm chúng ta yên tâm: GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2006 tính theo sức mua tương đương là 3.300 USD đứng thứ 150 trên 209 nước và vùng lãnh thổ, hệ số phát triển con người của nước ta là 0,709 xếp thứ 109  trên 177 nước và vùng lãnh thổ có số liệu công bố.

Như vậy, Việt Nam đang nằm ở vùng lõm của thế giới và sự "lồi lõm" trong nước cũng  tăng. Thu nhập của 20% dân cư giàu nhất gấp 8,3 lần so với thu nhập của 20% dân cư nghèo nhất. Số hộ nghèo theo tiêu chuẩn thu nhập dưới 200.000 đồng/tháng ở nông thôn và 260.000 đồng/tháng ở thành thị vẫn còn ở mức 17,2%. Hệ số GINI thể hiện mức chênh lệch thu nhập của Việt Nam là 36,1; đứng thứ 60 tính từ nước có sự bất bình đẳng cao nhất trong số 98 nước có số liệu công bố (GINI bằng không là bình đẳng lý tưởng, GINI bằng 100 là bất bình đẳng hoàn toàn).

Ðiều quan trọng hơn là sự phát triển của chúng ta trong những năm qua chưa bảo đảm cho chúng ta vượt khỏi vùng lõm chủ yếu là do chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng không cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Tăng trưởng chủ yếu do tăng vốn đầu tư và khai thác tài nguyên để xuất khẩu (than, dầu thô...). Sự đóng góp từ vốn cho tăng trưởng GDP tăng dần từ 14%  lên 73%. Ðóng góp của lao động giảm dần từ 57,3% xuống còn 16%. Tác động của tiến bộ kỹ thuật, chất lượng nguồn nhân lực và tác động của quản lý trong việc sử dụng vốn và lao động, v.v.  (chỉ tiêu năng suất tổng hợp) chỉ dao động trong khoảng từ 15 - 25% (*).

Do sự sai khác trong quá trình thu thập số liệu và kỹ thuật tính toán, các chỉ tiêu nêu trên có thể khác nhau nhưng sự khác biệt không lớn. Ðiều này cũng phù hợp với việc hệ số Icor của đầu tư đang tăng lên, trong những năm gần đây, dao động từ 4,5 - 5%, nghĩa là muốn tăng thêm 1 đồng sản phẩm cần đến 4,4 - 5 đồng vốn đầu tư. Năm 2006, chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam xếp thứ 86, tụt 21 bậc so với năm 2004. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm.

Ðiều đáng lo ngại là những yếu tố để có thể tận dụng được sự phát triển của khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa hiện ở mức rất thấp, thể hiện ở trình độ công nghệ của sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ và chất lượng nguồn nhân lực.

Về trình độ công nghệ của doanh nghiệp:

Phần lớn các doanh nghiệp nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ với 76% máy móc, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ những năm 1960s - 1970s, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang...; chỉ có 10% doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, 38% ở mức trung bình, 52% thuộc loại lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng công nghệ cao của Việt Nam hiện mới chỉ đạt khoảng 2%, trong khi đó Thái-lan là 31%, Singapore là 73%, Malaysia 51% (theo tiêu chí để đạt trình độ nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là trên 60%).

Ðầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, một tỷ lệ quá thấp so với các nước trong khu vực như Ấn Ðộ là 5%, Hàn Quốc 10%. Tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị của Việt Nam hàng năm cũng chỉ đạt 8 - 10%, trong khi ở các nước trong khu vực có tỷ lệ tương ứng là 15 - 20%.

Riêng về công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện có tới 58% doanh nghiệp chế biến nông sản Việt Nam có công nghệ lạc hậu.

Về ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh, tuy có đến 60,2% doanh nghiệp sử dụng máy vi tính, nhưng số doanh nghiệp sử dụng mạng nội bộ chỉ là 11,55% và 2,16% doanh nghiệp xây dựng website.

Chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp thấp, cơ cấu không phù hợp.

Theo điều tra mới đây của Bộ Kế hoạch và Ðầu tư tại 63.000 doanh nghiệp ở 36 tỉnh, thành phố trong cả nước cho thấy 34,3% lãnh đạo các doanh nghiệp có trình độ học vấn dưới cấp ba. Số chủ doanh nghiệp có trình độ từ thạc sĩ trở lên chỉ là 2,99%. Kết quả điều tra này cũng cho thấy sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ nhân lực bậc cao, các giám đốc điều hành doanh nghiệp.  Theo công ty tư vấn việc làm VietnamWorks thì nguồn nhân lực quản lý cấp cao tại Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 30 - 40% nhu cầu.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn quá thấp (13%). Tỷ lệ đại học và trên đại học - trung học chuyên nghiệp - công nhân kỹ thuật là 1 - 1,13 - 0,92 trong khi tỷ lệ này của quốc tế là 1 - 3 - 5.

Làm thế nào để vượt lên vùng lõm trên bản đồ phát triển của thế giới?  Câu trả lời là phải đạt được tốc độ và chất lượng tăng trưởng cao trong một thời gian dài gắn với một mô hình tăng trưởng phù hợp với thời đại toàn cầu hóa.

Muốn có tốc độ tăng trưởng cao phải tăng mức đầu tư, bao gồm đầu tư trong nước và đầu từ nước ngoài. Ðầu tư trong nước phụ thuộc vào mức tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Ðến lượt nó, mức tích lũy từ nội bộ nền kinh tế lại phụ thuộc vào hiệu quả đầu tư. Vì vậy, (i) Trước hết phải phân bổ vốn đầu tư một cách hợp lý. Vì phân bổ không hợp lý sẽ dẫn đến phá vỡ cân bằng cơ cấu và tính tương thích cần có giữa các ngành và các lĩnh vực, tạo ra những vùng nghẽn tăng trưởng gây lãng phí có tính dây chuyền; (ii) Nâng cao năng suất sử dụng vốn và rộng hơn là nâng cao chỉ tiêu năng suất tổng hợp. Các yêu cầu này chỉ có thể đạt được trên nền tảng của kinh tế thị trường và trong điều kiện cạnh tranh bình đẳng cùng với việc lựa chọn đúng đắn mô hình tăng trưởng.

Cơ chế thị trường bảo đảm cho việc phân bổ nguồn lực hợp lý, có hiệu quả theo tín hiệu thị trường, giúp cho doanh nghiệp hạch toán một cách chính xác giá thành và chi phí lưu thông theo một chuẩn mực kế toán rõ ràng, minh bạch được quốc tế công nhận; cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp xác định đúng lợi thế so sánh và luôn tạo ra lợi thế so sánh mới. Hai yếu tố này sẽ tạo ra cái tất yếu kinh tế vạch đường cho sự phát triển (ý của K.Marx).

Muốn hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường phải xóa bỏ bao cấp, loại trừ độc quyền, các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ (vốn, nguyên vật liệu, năng lượng, đất đai, lao động, nguồn nhân lực, công nghệ) phải do thị trường quyết định; hạn chế tối đa sự can thiệp của nhà nước làm méo mó thương mại hoặc tạo lợi thế cho một số đối tượng nào đó. Cơ chế thị trường luôn đòi hỏi tính minh bạch, công khai bảo đảm cho mọi đối tượng có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận thông tin, tiếp cận nguồn lực, tham gia thị trường. Trên cơ sở đó  mà khuyến khích cạnh tranh.

Trong những năm vừa qua, chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc hình thành các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Thông qua việc ban hành một loạt các luật (như Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, Luật Ðầu tư...). Mặc dầu vậy, vẫn phải rà xét nghiêm túc tất cả các yếu tố đang cản trở điều này, đặc biệt là trong lĩnh vực tiếp cận nguồn lực (đất đai, vốn); cơ hội kinh doanh và tính minh bạch, công khai; những lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước đang chiếm địa vị độc quyền hoặc gần như độc quyền đi đôi với việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp kể cả những doanh nghiệp lớn.

Về mô hình tăng trưởng (cũng là mô hình công nghiệp hóa). Trong thời đại toàn cầu hóa mà bản chất kinh tế của nó là sự di chuyển tự do các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ từ nước này sang nước khác trên phạm vi toàn cầu thì mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (đã rất thành công cho đến những năm 70 của thế kỷ trước) hoặc công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (cũng rất thành công trong những năm 80, 90 của thế kỷ trước) không còn hoàn toàn phù hợp.  Mô hình tăng trưởng ngày nay là phải tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có sức cạnh tranh, có thể chiếm giữ những công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu trên cơ sở xác định và tạo ra các lợi thế so sánh, bảo đảm quy mô kinh tế phù hợp với dung lượng thị trường.

Thực tế mô hình tăng trưởng của nước ta hiện chưa rõ ràng: Vừa tăng trưởng nhờ hướng về xuất khẩu, vừa đầu tư thay thế nhập khẩu. Nhưng tính cạnh tranh của các sản phẩm thay thế nhập khẩu vẫn kém nên nhập siêu vẫn tăng nhanh. Có thể thấy rõ điều này khi so sánh mức nhập siêu của nước ta từ ASEAN và Trung Quốc là những đối tác trong Hiệp định Thương mại tự do ASEAN và ASEAN - Trung Quốc và là những nước có nhiều sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm của nước ta. Tỷ lệ nhập siêu (tỷ số giữa chênh lệch kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu với tổng kim ngạch xuất khẩu) tăng cùng với tiến trình tự do hóa. Tỷ lệ nhập siêu từ các nước ASEAN giai đoạn 1996 - 2000  bình quân là 59,7% tăng lên 86,1% trong giai đoạn 2001 - 2006, với  Trung Quốc trong giai đoạn 1996 - 2000 là - 6,04% (Việt Nam xuất siêu) tăng lên  70% giai đoạn 2001 - 2006.  Nếu tính riêng tỷ lệ nhập siêu hàng chế biến và chế tạo (trừ nông sản và dầu thô) thì tỷ lệ này còn cao hơn.

Nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước

Không có và không thể có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo và thuần khiết. Vì vậy, cùng với việc hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, cần tăng cường vai trò của nhà nước trên cơ sở phân định đúng chức năng của nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý. Theo đó, cùng với việc xây dựng hệ thống luật pháp kinh tế, nhà nước có chức năng:

1. Ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc sử dụng đúng đắn các công cụ tài chính - tiền tệ và các biện pháp giám sát thị trường để bảo đảm tăng trưởng bền vững, ngăn chặn khủng hoảng và các cú sốc từ những biến động trên thị trường đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa. Ðiều cần chú ý là việc sử dụng các công cụ tài chính - tiền tệ chỉ có thể đúng đắn trên nền tảng của cơ chế thị trường được vận hành đồng bộ. Từ đó, những tín hiệu của thị trường phản ánh sự vận động khách quan của kinh tế mà không bị bóp méo, làm nhiễu.

2. Tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp cạnh tranh và gồm:

2.1. Tập trung phát triển mạnh nguồn nhân lực:

Tạo ra thị trường lao động có chất lượng cao, có như vậy mới tận dụng và khai thác được tốc độ phát triển nhanh của khoa học - công nghệ và xu thế quốc tế hóa quá trình sản xuất ngày càng sâu sắc với việc các công ty chuyển sản xuất ra nước ngoài đến nơi có chi phí thấp. Khi các công ty, các tập đoàn xuyên quốc gia chuyển sản xuất đến nơi có chi phí thấp họ có thể chuyển vốn, công nghệ sản xuất nhưng lực lượng lao động phải lấy tại địa phương.

Nếu chúng ta không có nguồn nhân lực chất lượng cao với chi phí thấp thì không thể thu hút đầu tư vào các lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu và cũng không thể tăng được chỉ tiêu năng suất tổng hợp. Nguồn nhân lực là lợi thế cạnh tranh dài hạn mà nước ta đang có tiềm năng. Phải nhanh chóng biến tiềm năng này thành thực lực trên thị trường trên cơ sở thực hiện xã hội hóa giáo dục, chấp nhận cạnh tranh trong đào tạo các lĩnh vực khoa học công nghệ, quản trị kinh doanh, pháp luật quốc tế và dạy nghề.

Xã hội hóa giáo dục không có nghĩa là nhà nước không đầu tư cho giáo dục. Nhà nước phải tập trung đầu tư cho các trường công làm cho các trường này trở thành hình mẫu về chất lượng đào tạo, về điều kiện dạy và học. Nhà nước cấp học bổng, miễn học phí cho học sinh nghèo, đối tượng chính sách và những học sinh học giỏi. Học phí chính thức có thể tăng lên, nhưng chất lượng giáo dục tốt hơn, lại không phải trả các khoản "học phí trá hình" thông qua nhiều khoản đóng góp, tiền học thêm.

Tại sao chúng ta không nghĩ đến một lúc nào đó Việt Nam sẽ trở thành trung tâm cung cấp dịch vụ giáo dục trong khu vực?. Tiềm năng của con người Việt Nam hoàn toàn cho phép chúng ta hy vọng nhưng phải thực hiện chương trình cải cách tổng thể nền giáo dục gắn với xã hội hóa giáo dục. Việc phải bắt đầu từ bây giờ là xây dựng chương trình đào tạo giảng viên, nếu không thì chẳng những không có đầu vào cho xã hội hóa và ngay cả việc mở thêm các trường đại học ở các tỉnh như hiện nay cũng không bảo đảm chất lượng vì không đủ giáo viên.

2.2. Tập trung phát triển một số công trình hạ tầng  giao thông, năng lượng:

Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đang là nguy cơ ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Trong khi tốc độ chu chuyển và dung lượng hàng hóa tăng nhanh (xuất nhập khẩu và tiêu dùng nội địa tăng cao, bình quân trên 20%/năm) thì khả năng thông qua của một số trục đường chính và các cảng biển đang rất hạn chế, làm tăng chi phí vận tải, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. Thiếu điện cũng là thách thức nghiêm trọng đối với sản xuất và thu hút đầu tư. Tình trạng này có nguyên nhân từ cơ chế đầu tư và phân bổ nguồn lực phân tán, kém hiệu quả. Chúng ta đầu tư rất nhiều cảng biển trải dài trên nhiều tỉnh có biển, nhưng ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, tính kết nối vận tải cao thì lại đang quá tải mà chậm được đầu tư mới.

Trước sức ép từ nhu cầu của các địa phương, năng lực và bản lĩnh của người lãnh đạo là phải biết lựa chọn những công trình cấp thiết, những công trình mà nếu được đầu tư sẽ nhanh chóng tạo ra hiệu quả. Có thể nói, trong một chừng mực nào đó, năng lực và bản lĩnh của người lãnh đạo thể hiện ở khả năng lựa chọn và bản lĩnh chối từ. Mặt khác, cần nhanh chóng xây dựng cơ chế thu hút các thành phần kinh tế và các nhà đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng.

2.3. Phát triển mạnh khoa học công nghệ:

Cơ chế thị trường và cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành. Tuy nhiên, nhà nước cần phát triển mạnh thị trường công nghệ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có điều kiện lựa chọn. Ðể làm việc này, cần đổi mới triệt để cơ chế hoạt động của các cơ quan khoa học, công nghệ,  tạo ra các doanh nghiệp khoa học - công nghệ tự chủ về tài chính gắn kết chặt chẽ với sản xuất, cạnh tranh để tạo ra các sản phẩn công nghệ có chất lượng; có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật; tăng cường nhập khẩu công nghệ đi đôi với phát triển năng lực nội sinh về công nghệ của đất nước.

2.4. Ðẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính:

Thủ tục hành chính là sự vận động cụ thể của thể chế trong mô hình tổ chức nhất định theo một hệ thống phân cấp nhất định và được thực hiện theo một quy trình tác nghiệp nhất định. Nói một cách khác, thể chế và tổ chức gắn với hệ thống phân cấp quy định thủ tục hành chính. Lâu nay, chúng ta cải cách thủ tục hành chính chủ yếu xử lý ở quy trình tác nghiệp (quy định cơ chế một cửa, xác định thời gian cho từng loại hình công việc) mà chưa hoàn thiện tổ chức, mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, nhưng không đặt nó trong tổng thể cải cách thủ tục  là rà xét đồng bộ trên cả ba khâu: Thể chế, tổ chức và quy trình tác nghiệp theo một mục tiêu thống nhất là giảm chi phí giao dịch, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân và trên cơ sở quan điểm: Doanh nghiệp và người dân là chủ thể của phát triển; mục tiêu trước hết của quản lý là thúc đẩy phát triển, mục tiêu trên hết và trước hết không phải là ngăn chặn, ngăn ngừa tiêu cực, mặc dù điều này cũng cần thiết.

3. Tập trung cao hơn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn:

Nông nghiệp, nông thôn và vùng khó khăn là địa bàn ít được hưởng lợi từ toàn cầu hóa, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Bởi lẽ, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn là khó hơn nhiều so với trong công nghiệp, giá trị gia tăng trong nông nghiệp thường thấp hơn trong sản xuất công nghiệp. Ðối với nước ta, mức độ khó khăn còn lớn hơn do sản xuất nông nghiệp vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, tỷ lệ bình quân đất canh tác trên đầu người ít. Vì vậy, ngoài việc tăng cường nguồn lực, cần đổi mới cách chỉ đạo nông nghiệp và nông thôn. Ðể phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa có chất lượng cao, có sức cạnh tranh lớn không thể thiếu vai trò tổ chức của Nhà nước.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành T.Ư Ðảng  (Khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới đã đề ra những định hướng lớn trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, nếu thiếu vai trò tổ chức của nhà nước thì các định hướng trên không thể thực hiện được. Trong nông nghiệp, kỹ thuật - công nghệ tuy quan trọng, nhưng kỹ thuật - công nghệ chỉ có thể giải quyết có hiệu quả trong một mô hình tổ chức sản xuất nhất định. Vì vậy, theo chúng tôi, cần lập những đoàn công tác ở nông thôn để xây dựng những mô hình tổ chức sản xuất trên địa bàn nông thôn bảo đảm tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường, qua đó mà cải thiện đời sống nông dân. Ðây cũng là cách để xác định mô hình phát triển của nông nghiệp nước ta sau khoán 10. Cùng với việc chuyển một bộ phận lớn nông dân sang làm công nghiệp, phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngay trên địa bàn nông thôn bằng cách phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề theo tinh thần mỗi làng một sản phẩm gắn với phát triển thương mại ở nông thôn (Các nước Nhật Bản, Thái-lan có phong trào mỗi làng một sản phẩm và đã thu được những kết quả ấn tượng). Sớm hình thành quỹ khuyến công để hỗ trợ đào tạo nghề, phát triển sản phẩm. Có như thế mới  giảm bớt được sự lồi lõm ngay trong nước.

4. Ðẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo và xây dựng chính sách an sinh xã hội:

Mặc dầu kết quả xóa đói, giảm nghèo của nước ta là khá ấn tượng, nhưng tỷ lệ nghèo hiện vẫn chiếm 17,2% dân cư. Ðiều cần đặc biệt quan tâm, là công tác xóa đói, giảm nghèo còn thiếu tính bền vững, tình trạng tái nghèo đang diễn ra. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xóa đói, giảm nghèo, coi trọng tính bền vững của công tác này theo một chiến lược tổng thể và dài hạn trên cơ sở tổng kết và nhân rộng các mô hình xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả. Cần thực hiện đồng bộ trên các khâu: Tăng mức vốn cho vay, chọn phương án sản xuất, hướng dẫn sản xuất thông qua công tác khuyến nông và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.

Nhanh chóng hình thành chính sách an sinh xã hội để trợ giúp những trường hợp khó khăn, những người thất nghiệp trong quá trình chuyển đổi cơ cấu.

Thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Châu Á với hai trung tâm lớn là Trung Quốc và Ấn Ðộ đang vươn lên mạnh mẽ. Việt Nam đang có nhiều cơ hội, nhưng cửa sổ cơ hội không phải quá dài. Vì vậy, phải tiếp tục thay đổi tư duy và gia tăng tốc độ. Trong thời đại hiện nay, tư duy mạnh hơn kinh nghiệm và quy mô không bằng tốc độ. Chính sự thay đổi tư duy và gia tăng tốc độ là tiền đề cho sự bứt phá và giúp ta rút ngắn khoảng cách phát triển và cũng chính sự trì trệ trong tư duy và sự chậm chạp trong hành động làm cho chúng ta rơi vào vùng lõm của thế giới. Bài học về đổi mới tư duy của Ðại hội lần thứ VI của Ðảng vạch ra vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi.

------------------------------

(*) Số liệu lấy từ nghiên cứu của Giáo sư Hồ Ðức Hùng, Ðại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.

Có thể bạn quan tâm