Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên gồm năm tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Ðác Lắc, Ðác Nông, Lâm Ðồng. Phía bắc, giáp tỉnh Quảng Nam; phía nam giáp các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận; phía tây giáp CHDCND Lào, Vương quốc Cam-pu-chia, các tỉnh Bình Dương, Bình Phước và tỉnh Ðồng Nai; phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa; có diện tích rộng 53.471 km2, kéo dài 450 km chạy từ bắc xuống nam và trải từ đông sang tây 150 km. Nếu tính cả vùng phụ cận, không gian văn hóa cồng chiêng sẽ bao gồm vùng núi của các tỉnh như Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Ðà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Ðồng Nai và Bình Phước.
Chủ thể sáng tạo, lưu giữ của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là đồng bào 11 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer (Ngữ hệ Nam Á): Ba Na, Gié Triêng, Xê Ðăng, Rơ Măm, M'Nông, Cơ Ho, Mạ, Brâu; các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo Polinêdi (Ngữ hệ Nam Ðảo) như: Ê Ðê, Gia Rai, Chu Ru; và 9 dân tộc ở các vùng lân cận như Chăm, Ra-glai (ngữ hệ Nam Ðảo), Bru-Vân Kiều, Tà Ôi, Co, Hrê, Chơ-ro, Xtiêng, Cơ-tu (Ngữ hệ Nam Á). Năm tháng đi qua, những chủ nhân của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã sáng tạo nên một kiệt tác mang tầm vóc nhân loại, giàu bản sắc dân tộc mà vô cùng độc đáo.
Các dân tộc ở Tây Nguyên có thể khác nhau về ngữ hệ, về nơi cư trú, tập quán canh tác, cư trú, nhưng sáng tạo của họ trong cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng lại rất thống nhất, thống nhất mà vẫn đa dạng. Trước hết là sự đa dạng trong biên chế dàn chiêng. Thực ra, cồng chiêng chỉ có hai loại: cồng (có núm), chiêng (không có núm), cá biệt có loại chiêng nứa, chúng gắn bó với các nghi lễ vòng đời người và vòng đời cây trồng như một thành tố không thể thiếu vắng ở tất cả các dân tộc Tây Nguyên. Ðó chính là tính thống nhất của kiệt tác này. Nhưng mỗi dân tộc trong các nghi lễ dùng một biên chế dàn chiêng riêng, lại rất đa dạng.
Nhóm Kpạ của dân tộc Ê Ðê trong các nghi lễ cầu mùa và cầu sức khỏe cho con người, biên chế dàn chiêng là 9 chiêng + 1 trống, trong tang lễ lại chỉ dùng hai chiêng núm, một chiêng bằng. Dân tộc M'Nông khi cúng thần dùng 6 chiêng đồng nhưng trong tang lễ lại dùng 6 chiếc chiêng làm bằng nứa. Dân tộc Xê Ðăng khi cúng thần dùng một bộ chiêng riêng, trong các lễ khác dùng chiêng H'lênh gồm 11 chiếc: 3 cồng, 8 chiêng. Dân tộc Brâu có hai bộ chiêng: Bộ chiêng goong có 3 chiêng núm, 8 chiêng bằng và 1 trống; Bộ chiêng tha chỉ dùng trong lễ ăn trâu, gồm hai lá chiêng (chiêng đực, chiêng cái). Dân tộc Gié Triêng có hai bộ chiêng: bộ chiêng 4 chiếc gồm 3 chiếc cồng, một chiếc chiêng nứa dùng trong lễ cúng thần, đâm trâu; bộ chiêng Hlênh dùng trong nghi lễ cúng thần, đám cưới, đám tang. Dân tộc Mạ trong lễ cúng thần dùng bộ chiêng bằng đồng gồm 6 lá chiêng, trong lễ tang dùng bộ chiêng nứa. Dân tộc Ba Na (trừ bộ chiêng so - bộ chiêng cổ - gồm 3 chiếc chiêng trầm, chuyên dùng trong lễ đâm trâu) chỉ có một bộ chiêng dùng cho các lễ thức.
Sự đa dạng còn thể hiện ở cách biên chế một dàn chiêng. Ðể đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các dân tộc ở Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn chiêng cồng không giống nhau:
- Biên chế dàn chiêng cổ sơ nhất có hai chiếc hay ba chiếc. Dàn hai chiêng bằng, gọi là chiêng Tha, của người Brâu; dàn ba cồng núm của người Chu Ru, Ba Na, Gia Rai, Gié Triêng, v.v... thuộc loại này. Người Ba Na, gọi là chiêng cổ xưa (Chiêng xo xơh). Các tộc này chỉ dùng loại chiêng cổ xưa trong những lễ quan trọng như Ðâm trâu, Chúc sức khỏe, Cầu an cho lúa và gia súc.
- Biên chế 6 chiêng phổ biến ở nhiều tộc người. Ðó có thể là 6 chiêng bằng của người Mạ, dàn Stang của người Xê Ðăng; dàn chiêng của các nhóm Gar, Noong, Prơng thuộc dân tộc M'Nông; dàn chiêng Diek của nhóm Kpạ người Ê Ðê. Cũng có dàn gồm 6 cồng núm như trường hợp của nhóm Bih thuộc dân tộc Ê Ðê. Dàn chiêng 6 chiếc có thể đảm trách nhịp điệu như dàn cồng núm của nhóm Bih dân tộc Ê Ðê, dàn Diek của nhóm Kpạ dân tộc Ê Ðê, dàn chiêng của nhóm Noong dân tộc M' Nông.
Trong trường hợp dàn chiêng 6 chiếc của người Mạ, nhóm Gar dân tộc M'Nông thì lại là sự đối đáp giữa các chiêng. Ở các tộc người Gia Rai (ngành Aráp), Ba Na (ngành Tồ Lồ, Kon K'Ðeh), người Xê Ðăng (ngành Steng) có biên chế hỗn hợp các cồng núm và chiêng bằng. Nguyên tắc chung là sự kết hợp của một dàn ba cồng núm "cổ xưa" và một bộ phận gồm 8 - 9 chiếc chiêng bằng. Từ các dàn có biên chế ba chiêng trở lên thường có chiếc trống lớn và cặp chũm chọe. Riêng dàn ba cồng núm của người Chu-ru thì phải có chiếc khèn 6 âm phối hợp...
Sự đa dạng trong nghệ thuật trình diễn chiêng. Người nghệ nhân Tây Nguyên đánh chiêng theo hai cách chính: dùng nắm tay đấm và dùng dùi gõ vào chiêng. Với cồng núm, nắm tay chỉ đấm vào núm mới có tiếng trong, vang. Nhưng với chiêng bằng thì nắm đấm luôn phải đấm vào một điểm giữa tâm và vành ngoài của mặt phải chiêng. Có ba loại dùi: cứng, mềm và bọc vải hoặc da. Dùi bọc vải thường dùng cho cồng núm tạo ra một âm thanh tròn, mềm. Dùi cứng và dùi gỗ mềm không bọc vải thường dùng cho chiêng bằng, gõ vào tâm mặt trong của chiêng. Tùy từng tộc người và tùy theo yêu cầu nghệ thuật của bài chiêng mà người ta dùng bàn tay xoa vào, đặt vào mặt trong của chiêng bằng, hoặc dùng các ngón tay chặn trên vành ngoài của chiêng. Cũng có nghệ nhân dùng cùi tay chặn vào mặt chiêng bằng. Nghệ nhân phải tỳ đùi hay lấy tay bịt trực tiếp vào đỉnh núm hay chân núm mới được. Các cách ngắt chiêng khác nhau đã cho những sắc thái âm thanh phong phú, làm tăng thêm sức diễn cảm và vẻ độc đáo của bài nhạc chiêng.
Sự đa dạng còn thể hiện ở chỗ các dân tộc đã sáng tạo nhiều bản chiêng cho các lễ thức khác nhau: bài A tâu chỉ được sử dụng trong những lễ liên quan đến tang ma. Bên cạnh đó lại có bài có tính đa dụng, được sử dụng với các mục đích khác nhau. Chẳng hạn: bài Tơnơl là bài chiêng của lễ groong kơpơ tơnơl (đâm trâu tạ thần cầu an), đồng thời cũng là bài chiêng sử dụng trong lễ xmăh kcham (lễ cúng đất làm nhà cho cả cộng đồng làng). Tơnơl còn được dùng cả ở lễ cưới lúc khấn yook bơ ngai (được người mới), Tơ đrăng là bài chiêng dùng trong lễ mừng chiến thắng, v.v...
PGS, TS NGUYỄN CHÍ BỀN
Viện trưởng Văn hóa - Thông tin