Quân và dân Trung Bộ chuẩn bị kháng chiến lâu dài

Ðể đi vào cuộc kháng chiến lâu dài, về sắp xếp tổ chức chỉ đạo, cuối năm 1946, Xứ ủy Trung Kỳ chia ra hai bộ phận: một bộ phận ra chỉ đạo Khu IV, còn ở Nam Trung Bộ thì tổ chức Phân Xứ do đồng chí Nguyễn Duy Trinh làm Bí thư. Về chính quyền, lập cơ quan đại diện Ủy ban hành chính Trung Bộ tại Nam Trung Bộ do đồng chí Nguyễn Duy Trinh phụ trách. Ðối với cực Nam Trung Bộ, lập Phân cực xứ do đồng chí Nguyễn Côn làm Bí thư.

Tháng 11-1946, T.Ư  Ðảng và  Chính phủ cử  đồng chíPhạm Văn Ðồng làm đại diện tại Nam Trung Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn đồng chí Phạm Văn Ðồng: Phải quan tâm trước hết việc xây dựng Ðảng bộ đi đôi với xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh; động viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng, tăng cường đoàn kết nhân dân, củng cố và bảo vệ vùng giải phóng, đồng thời kiên trì chiến đấu và quyết tâm thắng kẻ thù ngay trên các mặt trận Nam Trung Bộ.

Cuối năm 1946, Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Bộ trưởng Nội vụ, thay mặt Chính phủ T.Ư đi kinh lý các tỉnh miền trung. Ðến Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Cụ truyền đạt đường lối kháng chiến cứu nước của Chính phủ, Mặt trận và những lời dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.

Cuối tháng 1-1946, Bộ Chỉ huy Pháp huy động lục, hải, không quân, mở cuộc hành quân lớn bằng cả đường bộ và đường thủy, ra Nam Trung Bộ. Trên đất liền, hai cánh quân địch theo đường số 1 từ Phan Rang ra, đường số 21  từ Tây Nguyên xuống, giải vây và đánh chiếm thành phố Nha Trang và vùng phụ cận. Sau hai trận chiến đấu ở bến đò Thành và bến đò Phú Cốc, trong tình thế bị vây ép cả trước mặt và phía sau, phần lớn lực lượng vũ trang ta ở mặt trận Nha Trang rút ra ngoài Ðèo Cả, về Tuy Hòa, Phú Yên. Một bộ phận nhỏ ở lại, tiếp tục chiến đấu trong lòng địch. Từ đó, đợt tác chiến trong thành phố và vùng ven đô Nha Trang kết thúc. Quân ta đã hoàn thành nhiệm vụ vây hãm và tiêu hao địch trong suốt ba tháng ở Nha Trang.

Lần đầu, trên địa bàn thành phố và vùng phụ cận, dưới sự chỉ huy thống nhất của một Bộ Chỉ huy Mặt trận, lực lượng vũ trang ta đã tiến hành một đợt tác chiến gồm những trận đánh có liên kết với nhau ở mức độ nhất định, bao vây, giam chân và tiêu hao quân địch trong một thời gian dài. Ðợt tác chiến của mặt trận Nha Trang đã góp phần quan trọng thực hiện Nghị quyết của Hội nghị quân sự Nam Trung Bộ (tháng 9-1945) là làm thất bại ý đồ của địch, nhanh chóng đánh chiếm Nha Trang để tạo bàn đạp tiến công, chiếm đóng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên trong vòng vài tháng. Rõ ràng là, trong đợt tác chiến ở Nha Trang cuối năm 1945 đầu năm 1946 đã xuất hiện những yếu tố đầu tiên (về quy mô lực lượng, về không gian và thời gian chiến đấu, về thống nhất chỉ huy, về thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra), mầm mống của chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch sau này.

Thực hiện Chỉ thị của T.Ư Ðảng và của Xứ ủy, ở Trung Bộ, khắp Bình - Trị - Thiên thành trận địa. Bãi chông chống quân nhảy dù được dựng lên ở nhiều nơi. Những đội cảm tử được thành lập ở các thôn xã ven quốc lộ. Vệ quốc quân Thừa Thiên đã chặn đánh địch quyết liệt tại đèo Phước Tường, đèo Mũi Né, bờ sông Truồi (trên đường số 1 từ đèo Hải Vân ra Huế) và đã diệt hàng trăm tên địch. Vệ quốc quân Quảng Trị đã phân tán về từng khu vực, cùng dân quân, du kích bền bỉ bám đánh địch trên dọc đường số 9 từ Lao Bảo, Khe Sanh, Ðầu Mầu, Cam Lộ ra đến Ðông Hà, có trận phá hủy xe tăng, diệt gọn cả một trung đội địch, như trận đánh địa lôi ở Rào Quán.

Tại Ðà Nẵng, sáng 20-12-1946, địch triển khai lực lượng tiến công ta từ nhiều hướng. Mặc dù quân địch đông, trang bị mạnh, lại được pháo từ ngoài khơi bắn vào yểm trợ, Vệ quốc đoàn cùng tự vệ và công an thành phố chiến đấu dũng cảm, đánh trả địch. Quân ta không chờ địch tiếp cận mới đánh tiêu hao lực lượng chúng, mà nhiều đơn vị đã chủ động bí mật luồn vào đánh địch ở bên sườn, phía sau, như ở sân bay, Chợ Mới. Nhiều trận đánh gần diễn ra ác liệt ở nhà bưu điện, nhà ga, cổ viện Chàm trên đường Phan Chu Trinh, Triệu Việt Vương...

Từ trung tuần tháng 1-1947, sau khi quân địch tập trung đánh rộng ra phía bắc và tây bắc thành phố, ta lui quân ra ngoại ô, tổ chức vành đai bao vây bám đánh địch từ Phong Lê, Nghi An, Hòa Mỹ, Ða Phước đến ngã tư Yên Khê ra giáp biển. Sớm phát hiện những bất lợi nếu chiến đấu bằng trận địa cố định, quân ta đã chuyển sang bao vây ngăn chặn địch bằng nhiều tuyến cơ động và đưa một tiểu đoàn đứng chân ở sát vùng ven, thường xuyên đột nhập thành phố đánh địch, nhất là trong các đợt "tổng nhiễu loạn". Sân bay Ðà Nẵng là một trong các mục tiêu quan trọng thường xuyên bị tiểu đoàn này tập kích.

Cuộc chiến đấu của lực lượng vũ trang thành phố Ðà Nẵng và vùng ngoại ô kéo dài một tháng. Một bộ phận quan trọng sinh lực địch bị tiêu hao. Chúng không thực hiện được ý đồ nhanh chóng chiếm thành phố Cảng quan trọng này làm bàn đạp phối hợp với đồng bọn từ phía bắc xuống hòng làm chủ đường số 1 trong vòng một tuần như kế hoạch đã định.

Có thể bạn quan tâm