Việt Nam có 2.372 con sông có chiều dài hơn 10km. Tổng lượng dòng chảy năm của Việt Nam khoảng từ 830 đến 840 tỷ mét khối/năm, trong đó 63%, tức khoảng từ 520 đến 525 tỷ mét khối, chảy từ các nước láng giềng nằm ở thượng nguồn các lưu vực sông chảy vào nước ta. Lượng nước sinh ra từ lãnh thổ Việt Nam chiếm 37% tổng lượng dòng chảy năm của đất nước, khoảng từ 310 đến 315 tỷ mét khối. Điều này có nghĩa, các hoạt động sử dụng, phát triển tài nguyên nước trên các sông xuyên quốc gia, sông quốc tế sẽ tác động trực tiếp đến nguồn nước của Việt Nam. Việc phụ thuộc nặng nề vào nguồn nước từ bên ngoài được xem là một thách thức lớn cần vượt qua để phát triển và quản lý tài nguyên nước của Việt Nam. Với số dân hơn 96 triệu người, Việt Nam có tổng lượng nước bình quân đầu người theo năm đạt khoảng 9.500m3/người, thấp hơn chuẩn 10 nghìn m3/người/năm của quốc gia có nguồn nước ở mức trung bình theo quan điểm của Hiệp hội Nước quốc tế. Nếu tính theo lượng nước nội sinh, Việt Nam mới đạt khoảng 4.000 m3/người/năm. Như vậy, có thể thấy nguồn nước của Việt Nam không dồi dào.
Là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất của bất cứ thay đổi dòng chảy nào trên sông Mê Kông, Việt Nam còn đồng thời chịu tác động kép của tình trạng môi sinh toàn cầu. Tình trạng nóng lên của Trái đất và nước biển dâng khiến toàn bộ vùng hạ lưu sông Mê Kông ở Việt Nam sẽ có những biến động thay đổi tuyệt đối về môi sinh trong khoảng một thập niên tới. Tình trạng chung là thiếu nước trên lưu vực sông, tình trạng xâm nhập mặn và hạn hán sẽ ngày càng gia tăng và đó là xu thế không thể đảo ngược. Trong khi đó, dù tổng lượng mưa trung bình của Việt Nam tương đối cao, nhưng phân bố không đồng đều theo không gian và thời gian. Do lượng mưa năm phân bố không đều theo mùa, dẫn đến có sự phân hóa giữa lượng dòng chảy mùa mưa và mùa khô…
Theo các chuyên gia lĩnh vực tài nguyên nước và môi trường, chất lượng nước mặt ở Việt Nam đã và đang suy thoái nghiêm trọng, nhất là chất lượng nước của các sông, ngòi, kênh rạch; ở các vùng đô thị và vùng công nghiệp bị suy thoái tới mức gần như biến chất và nguy hiểm đối với con người và thủy sinh. Thí dụ: Chất lượng nước sông Hồng qua đoạn Phú Thọ, Vĩnh Phúc có các chỉ tiêu hóa sinh (COD, BOD5 và TSS) vượt mức quy chuẩn. Môi trường mặt nước sông Đáy, sông Nhuệ đang chịu tác động mạnh của nước thải sinh hoạt và các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản gây ra… Trong khi đó, công tác quản lý tài nguyên nước ở nước ta còn nhiều bất cập như: Chưa thật sự theo phương pháp quản lý tổng hợp và bền vững theo lưu vực sông, vẫn theo địa giới hành chính; chưa có quy hoạch phát triển tài nguyên nước toàn diện trên các hệ thống sông, lưu vực sông, mà thường là quy hoạch từng ngành riêng. Trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa xem xét đến yêu cầu sử dụng nước của các ngành trong toàn lưu vực sông, mà chỉ chú ý đến từng ngành, địa phương riêng. Khi thiết kế, xây dựng và vận hành các hồ chứa, nhu cầu nước duy trì môi trường hạ lưu công trình chưa được xem xét đầy đủ, đã tạo nên "đoạn sông chết" ở phía hạ lưu đập. Mặt khác, việc phân bổ, chia sẻ nguồn nước giữa các lưu vực sông và giữa các địa phương trong lưu vực cũng chưa được xem xét một cách hợp lý, thường chỉ chú trọng đến lợi ích của một nhóm ngành dùng nước (thường là phát điện) và cục bộ địa phương. Tình trạng khai thác, sử dụng nước, nhất là tài nguyên nước dưới đất quá mức, đã và đang gây nên hiện tượng cạn kiệt nguồn nước ngầm, sụt lún đất ngày càng gia tăng tại các địa phương…
Để bảo đảm an ninh nguồn nước, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho rằng: Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường kiểm tra thực thi các chính sách, pháp luật trong quản lý và bảo vệ tài nguyên nước; thúc đẩy sử dụng nước một cách thông minh, tiết kiệm; tích cực khôi phục những dòng sông bị suy thoái, ô nhiễm; làm tăng trở lại nguồn nước ngầm bị suy giảm… Các chuyên gia cũng đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát, nhằm cung cấp số liệu khí tượng, thủy văn đầy đủ và chính xác để dự báo và cảnh báo về nguồn nước tốt hơn. Xây dựng và nâng cấp hệ thống quan trắc, giám sát tự động, trực tuyến, gồm cả quan trắc nền, quan trắc biến động và giám sát khai thác, sử dụng, vận hành các hồ chứa và hoạt động xả thải vào nguồn nước, tiến tới quản lý thông minh tài nguyên nước. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của xã hội về an ninh nước, trách nhiệm bảo vệ và sử dụng nguồn nước tiết kiệm, hiệu quả; tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế, nhất là tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế để bảo vệ an ninh nước quốc gia; đồng thời học tập kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới trong quản lý và khai thác tài nguyên nước.