Khó có một Tuyên ngôn nào khi thời gian đã lùi xa, hơn một thế kỷ rưỡi, vắt qua ba thế kỷ, trong khi thế giới đầy biến động và thách thức, vẫn vẹn nguyên giá trị và tràn đầy sức sống.
Không ai có thể phủ nhận những lập luận khoa học - những cứ liệu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về sự vận động có tính quy luật, khách quan của xã hội loài người nói chung, xã hội tư bản nói riêng. Những nguyên lý tổng quát trình bày trong bản Tuyên ngôn cho đến nay vẫn hoàn toàn đúng. Những đường nét chủ yếu của thế giới hôm nay - thế giới của những thập niên đầu thế kỷ 21 - và của những gì đang diễn ra trong xã hội tư bản hiện đại đều là những minh chứng hùng hồn, đanh thép cho những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản. Sức sống bất diệt của những tư tưởng trong Tuyên ngôn đã được Gi.Ðê-ri-đa, một triết gia hiện đại phương Tây có uy tín ở Pháp và ở Mỹ, không phải là một người mác-xít, thừa nhận một cách không do dự trong cuốn Những bóng ma của Mác (Spectres de Marx), xuất bản ở Paris tháng 10-1993: "Cần phải trở về với C.Mác... Không có tương lai nếu không có C.Mác, nếu không có các di sản của C.Mác"(1). Ðê-ri-đa không chủ trương kế thừa toàn bộ các luận điểm của C.Mác, ông chỉ kêu gọi "trung thành với C.Mác trong một tinh thần nhất định của C.Mác". Theo ông, cần phải trở về với C.Mác để chống lại cái "trật tự thế giới mới" của thị trường tư bản chủ nghĩa với nhiều "vết loét". Ðê-ri-đa là một học giả tư sản đứng trên quan điểm của giai cấp mình để "trả lại" giá trị cho bộ Tư bản. Ca ngợi cuốn sách của Ðê-ri-đa, trên tờ báo Pháp Người quan sát mới (Le Nouvel Observateur), tác giả Ði-đi-ê Ê-ri-bông (Didier Eribon) khẳng định "C.Mác - nhà tư tưởng của thế kỷ 21" (đây cũng là đầu đề bài báo của ông).
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Ðông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch hý hửng tưởng rằng, "Chủ nghĩa Mác đã chết", đã được chôn vùi vĩnh viễn dưới đống gạch của bức tường Berlin, dưới đống đổ nát của chủ nghĩa cộng sản. Song chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đã không chết. Trên thế giới ngày nay vẫn đang trụ vững và phát triển không ngừng nhiều nước xã hội chủ nghĩa, như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba... Các nước châu Mỹ la-tinh, các lực lượng cánh tả đã liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử, nắm được chính quyền, trong đó nhiều nước công khai tuyên bố đi theo con đường phát triển xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng đây là một hiện tượng mới trong những năm đầu của thế kỷ 21, thu hút sự chú ý toàn cầu.
Những nhà mác-xít chân chính, những nhà khoa học thật sự đã nhận thức sâu sắc rằng thế giới ngày nay đã có nhiều đổi khác so với 160 năm trước. Bối cảnh thế giới lúc C.Mác viết Tuyên ngôn là chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ tự do cạnh tranh. Ngày nay - trên nền của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão, của nền kinh tế tri thức - là thế giới toàn cầu hóa. Chúng ta không thể đòi hỏi Tuyên ngôn giải đáp mọi vấn đề của một thiên niên kỷ mới. Cũng như vậy, thế hệ hôm nay không thể trả lời những câu hỏi mà thế hệ sau 160 năm nữa đặt ra. Nhưng xét trên tinh thần, lập trường, quan điểm, phương pháp và những nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản, ngày nay nếu viết lại, thì cũng không thể viết khác đi.
Cần khẳng định lại những điều cơ bản, đúng đắn từ lúc C.Mác và Ph.Ăng-ghen mở đầu bản Tuyên ngôn cho đến tận hôm nay. Hai ông đã nói tới "xã hội tư sản hiện đại không thể xóa bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem những giai cấp mới, những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi". Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển. Xã hội tư bản trong "trật tự thế giới mới" vẫn còn nhiều "vết loét" như cách nói của Ðê-ri-đa. Xã hội tư sản hôm nay tồn tại trên cơ sở sự thống trị của chế độ tư hữu, trên sự áp bức, bóc lột những người lao động và những nước nghèo của các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia, của một số nước phát triển. Ngày nay, các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Ðấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình... Tất cả những nét mới ấy trong tình hình thế giới và khu vực hôm nay cho thấy những dự báo trong Tuyên ngôn về chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản là đúng đắn.
Những kết luận mác-xít nêu trong Tuyên ngôn 1848 đã được bổ sung, làm phong phú hơn bởi cuộc cách mạng 1848 - 1849, Công xã Paris 1871. Dưới ánh sáng Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã chứng minh cho tính đúng đắn trong luận điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về việc giai cấp vô sản phải "thanh toán" kẻ thù của giai cấp, của dân tộc mình, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc. Ðồng thời, giai cấp vô sản đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản, đại biểu lợi ích cho toàn bộ phong trào.
Chủ nghĩa Mác là một học thuyết sống không chỉ vì những nguyên lý cơ bản của nó vẫn vẹn nguyên giá trị cùng với thời gian, mà còn vì nó luôn vận động và đổi mới từ C.Mác đến V.I Lê-nin, từ V.I Lê-nin đến Hồ Chí Minh, từ Hồ Chí Minh đến thế hệ hôm nay và mai sau. Di sản của C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã được các học trò gìn giữ bằng cách vận dụng và phát triển sáng tạo trong suốt hơn một thế kỷ qua và được thực tiễn kiểm chứng là đúng đắn. Cách mạng là sáng tạo. Chân lý là cụ thể. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý và luôn luôn vận động. Loài người đi từ nấc thang này đến nấc thang khác trong nhận thức vô tận để tìm ra chân lý. Học thuyết cách mạng nếu không được bổ sung, không được phát triển cùng với thực tiễn, dân tộc và nhân loại, thì sẽ trở nên xơ cứng, không còn sức sống.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen là những nhà cách mạng sáng tạo, thiên tài, trước hết vì nguyên lý mà các ông nêu ra vượt không gian, thời gian, luôn đâm chồi, nảy lộc cùng với năm tháng. Là những nhà khoa học, các ông ý thức rõ ràng rằng, học thuyết cách mạng phải là học thuyết "mở", học thuyết phát triển. Ngay trong Lời tựa viết năm 1872, tức là 24 năm sau khi Tuyên ngôn ra đời, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng, "vài chi tiết cần phải xem lại". Chính ngay Tuyên ngôn cũng đã giải thích rõ rằng, "bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời". Trong suốt cuộc đời mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã nhiều lần nhấn mạnh, trong bất luận trường hợp nào cũng không nên coi học thuyết của hai ông như những khuôn mẫu; rằng, "lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển chứ không phải là giáo điều". Cả hai ông đều nhấn mạnh tới sự cần thiết của "tự do phát triển" học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học...
Chủ tịch Hồ Chí Minh tự coi mình là người học trò nhỏ của C.Mác. Khi ca ngợi người thầy, Hồ Chí Minh cho rằng C.Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Vì vậy, Người nhấn mạnh tới việc học tinh thần xử trí mọi việc của C.Mác; dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để phân tích tình hình cụ thể và tìm ra quy luật của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh ý kiến của V.I Lê-nin cho rằng, "lý luận cách mạng không phải là giáo điều, không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, cần phải luôn bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động". Ngay từ năm 1924, trong khi khẳng định "chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó", Người đã không ngần ngại viết rằng: "Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Ðó chưa phải là toàn thể nhân loại"(2).
Cần nhận thức một cách khoa học rằng, mỗi dân tộc có quyền lựa chọn con đường tiến lên để đạt mục tiêu cách mạng, phù hợp với đặc điểm, tình hình của mình, không nhất thiết mọi nước đều có cùng khuôn mẫu giống nhau. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định không có một mô hình, con đường chung đi lên chủ nghĩa xã hội cho tất cả các nước. Người viết: " Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Ðông Âu, Trung Quốc, Việt Nam"(3). Người còn nhấn mạnh: "Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội"(4).
Nhìn lại Tuyên Ngôn của Ðảng Cộng sản sau 160 năm, chúng ta thấy đó là một chặng đường dài của nhân loại chứa đựng bao thăng trầm, thành công và thất bại. Bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác, chúng ta có chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi vĩ đại trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vượt qua thử thách và phải trả giá đắt trong 10 năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã đi chặng đường đổi mới được hơn 20 năm. Bài học hàng đầu của Ðảng Cộng sản Việt Nam tổng kết từ hơn 20 năm qua là đổi mới phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðiều quan trọng là phải luôn luôn nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa có chọn lọc mọi thành quả xưa nay của loài người theo tinh thần "dĩ bất biến ứng vạn biến" để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam.
Một thiên niên kỷ mới đã mở ra trước nhân loại. Từ tinh thần trong Tuyên ngôn, bản lĩnh và trí tuệ của con người Việt Nam phải được thể hiện ở chỗ biết đáp ứng đòi hỏi của tình hình thế giới, tiến cùng thời đại và cái gì có lợi cho sự nghiệp cách mạng thì kiên quyết làm bằng được. Ðó là cách tốt nhất để bảo vệ và phát triển giá trị Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản.
PGS, TS BÙI ÐÌNH PHONG
------------
(1) Giắc-cơ Ðê-ri-đa: Những bóng ma của Mác, Nxb. Chính trị quốc gia - Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994, tr. 6.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.465.
(3) Hồ Chí Minh, Sđd, t.7, tr.247.
(4) Hồ Chí Minh, Sđd, t.8, tr.227.