Phổ cập giáo dục trung học cơ sở còn nhiều khó khăn

Khó khăn còn lớn

Năm 2000, tất cả các địa phương trong cả nước hoàn thành đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ (PCGDTH-CMC). Dựa trên nền tảng đó, việc tiến hành phổ cập giáo dục trung học cơ sở (PCGDTHCS) được tiến hành và ngành giáo dục và đào tạo đề ra mục tiêu, phấn đấu đến năm 2010, hoàn thành trên toàn quốc.

Đến nay, sau năm năm của giai đoạn một, có 30/ 64 tỉnh, thành phố; 436/ 665 quận, huyện, thị xã và 9.132/ 10.816 xã, phường đạt chuẩn. Đáng chú ý, có 27/ 30 tỉnh, thành phố đạt chuẩn vững chắc. Trên cơ sở kết quả đạt được, nhiều địa phương như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tĩnh, Quảng Bình xây dựng đề án và kế hoạch phổ cập giáo dục bậc trung học. Riêng Hà Nội, Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh đã triển khai thí điểm phổ cập giáo dục bậc học này.

Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, công tác PCGDTHCS đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cũng như hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Điển hình là nhiều địa phương xây dựng kế hoạch phổ cập chưa sát điều kiện thực tế, nhất là chưa coi trọng đúng mức việc củng cố, duy trì và phát triển kết quả đạt được. Từ đó dẫn đến kết quả đạt chuẩn của những địa phương này thấp, tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học khá cao. Trường học, phòng học, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập ở phần lớn các địa phương khó khăn, chưa đáp ứng nhu cầu học tập và bảo đảm chất lượng giáo dục. Các tỉnh miền núi phía bắc, duyên hải miền trung, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, v.v. chưa đủ mạng lưới trường tiểu học, THCS. Tình trạng học sinh phải học lớp nhô, lớp ghép, điểm trường nhỏ lẻ là phổ biến. Đó là chưa kể, khi bước vào thực hiện nhiệm vụ phổ cập, tại các tỉnh này, tỷ lệ huy động học sinh đến lớp thấp, tỷ lệ lưu ban, bỏ học cao so với mặt bằng chung cả nước.

Đáng quan tâm , một số địa phương nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng và vai trò của công tác PCGDTHCS đối với phát triển kinh tế - xã hội; mới chỉ quan tâm mục tiêu trước mắt là phấn đấu đạt chuẩn, hài lòng với thành tích đạt được mà quên nhiệm vụ hết sức quan trọng và thường xuyên là xây dựng kế hoạch củng cố, duy trì và phát triển kết quả.

Qua năm năm, sau thời điểm cả nước đạt chuẩn PCGDTH-CMC, nay còn "rớt" lại 16 xã thuộc ba tỉnh khó khăn: Kon Tum, Gia Lai, Cao Bằng chưa đạt chuẩn. Điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, hạn chế. Bên cạnh đó, những tỉnh chưa đạt chuẩn quốc gia giai đoạn một là những tỉnh có nhiều xã đặc biệt khó khăn. Đến thời điểm này vẫn còn một số địa phương có số xã đạt chuẩn PCGDTHCS đúng độ tuổi thấp như: Sóc Trăng: 17,1%, Hà Giang: 25,6%, Lào Cai: 31,1%, Điện Biên: 33,7%, Bạc Liêu: 37,7%, Ninh Thuận: 33,9%. Một số địa phương có xã đạt chuẩn PCGDTHCS thấp như: Lai Châu: 17,8%, Điện Biên: 37,8%, Gia Lai: 45%, Kon Tum: 47,4%, Lào Cai 47,6%. Cũng qua số liệu và kết quả phân tích cho thấy, có khoảng 12% số huyện đạt kết quả tại thời điểm kiểm tra chưa thật vững chắc (tỷ lệ đạt chuẩn phổ cập ở mức không cao).

Một số tỉnh có điều kiện thuận lợi, đạt chuẩn PCGDTHCS từ khá sớm (năm 2001, 2002) nhưng nay nhiều xã còn chưa đạt chuẩn. Đó là chưa kể một số địa phương như: Bắc Cạn, Quảng Trị, Đồng Nai, mặc dù đã đạt chuẩn PCGDTHCS nhưng chưa đạt chuẩn PCGD tiểu học đúng độ tuổi. Đó cũng là nguyên nhân làm hạn chế tính bền vững của kết quả phổ cập.

Ngoài ra, chất lượng phổ cập còn thấp và chưa vững chắc ở một số địa phương. Do sức ép về tiến độ và số lượng, một vài nơi "cố" thực hiện kế hoạch để đạt chuẩn một cách "gượng ép", chất lượng phổ cập đạt được chưa cao, thậm chí duy trì một thời gian ngắn thì "mất chuẩn". Việc cố gắng tăng tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi đi học bằng biện pháp vận động phần lớn số học sinh tái nhập học, thực hiện giáo dục không chính quy (học chương trình bổ túc), trong khi điều kiện bảo đảm chất lượng của hệ thống giáo dục này còn nhiều hạn chế cũng là một trong những khó khăn, thách thức không nhỏ cho công tác PCGDTHCS.

Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Văn Quang cho biết: Giải quyết, khắc phục những khó khăn mang tính đặc thù từng vùng, miền để đẩy nhanh tiến độ PCGDTHCS là con đường ai cũng có thể hình dung được. Nhưng thực hiện, biến nó thành hiện thực quả là vô cùng gian khó.

Tại hội nghị tổng kết công tác PCGDTHCS giai đoạn một (2001-2005) tổ chức mới đây, Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Vọng thừa nhận: Những hạn chế, yếu kém trong công tác PCGDTHCS là do nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác này hạn chế. Điều kiện thực hiện các mục tiêu phổ cập còn nhiều khó khăn; nhất là cơ sở vật chất trường, lớp và đội ngũ giáo viên. Cơ chế chính sách cũng chưa thật sự phù hợp từng vùng, miền; nhất là sự hỗ trợ, đầu tư cho các vùng khó khăn còn chậm và hạn hẹp. Đây là bài toán cần được giải quyết một cách ráo riết và kịp thời trong giai đoạn tiếp theo của chặng đường PCGDTHCS.

Cần những giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt hơn

Qua nửa chặng đường PCGDTHCS nhưng còn hơn 50% số tỉnh, thành phố chưa đạt chuẩn, nhiều địa phương gặp nhiều khó khăn, hình thành bức tranh toàn cảnh chưa mấy lạc quan. Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân cũng không khỏi lo lắng trước tình trạng "đạt chuẩn" "gượng ép", chất lượng chưa cao, sau thời gian ngắn "mất chuẩn". Trước tình hình đó, Bộ trưởng nhấn mạnh: Cần mạnh dạn thực hiện PCGD đúng thực chất, không chạy theo "đạt chuẩn" một cách máy móc, gượng ép. Rõ ràng, vừa để thực hiện tiến độ, vừa bảo đảm chất lượng và duy trì một cách bền vững kết quả PCGDTHCS, ngành giáo dục và đào tạo cần nỗ lực, tập trung cao độ, có những giải pháp thực hiện mạnh mẽ và quyết liệt hơn.

Từ kinh nghiệm thực tế PCGDTHCS ở Tuyên Quang, một tỉnh miền núi phía bắc gặp nhiều khó khăn nhưng về đích khá sớm, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Anh Tài kiến nghị: "Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần xác định bước đi thích hợp, có cơ chế chính sách, biện pháp cụ thể phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi địa phương". Còn Nhà giáo Nhân dân Lê Đức Quý, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh khẳng định: "Ở đâu, các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc thì ở đó công tác PCGDTHCS triển khai có bài bản, đạt hiệu quả cao, chất lượng tốt, tiến độ nhanh. Ngược lại, ở đâu sự lãnh đạo của Đảng bị buông lỏng, chính quyền thiếu quan tâm thì ở đó chất lượng phổ cập ít được cải thiện, hiệu quả thấp, tiến độ chậm". Do vậy, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp trong giai đoạn hai chú trọng hơn.

Mặt khác cần quy hoạch, tăng cường mạng lưới trường, lớp, phấn đấu từng bước bảo đảm đủ trường, lớp ở xã và cụm xã; mở rộng quy mô ở những vùng còn thiếu trường học; có kế hoạch tách dần những trường có nhiều cấp học. Tăng cường cơ sở vật chất trường học trong chương trình kiên cố hóa và định hướng xây dựng trường chuẩn quốc gia ở tất cả các cấp học. Tiếp tục củng cố hệ thống trường dân tộc nội trú và bán trú dân nuôi. Quan tâm đối với học sinh vùng khó khăn (chưa có chế độ hoặc chế độ chưa phù hợp). Tăng cường cơ hội học tập cho các đối tượng phổ cập có hoàn cảnh khó khăn, không theo học được trong hệ thống giáo dục chính quy; đa dạng các hình thức học tập nhằm đáp ứng nhu cầu người học. Việc phát triển các lớp bổ túc THCS góp phần thực hiện PCGDTHCS là một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục thường xuyên, nhất là với các tỉnh miền núi.

Có thể xem việc phát triển các lớp bổ túc THCS như một trong những biện pháp quan trọng và có ý nghĩa chiến lược trong suốt quá trình thực hiện PCGDTHCS ở mỗi địa phương cũng như trên địa bàn cả nước. Thực hiện tốt công tác củng cố và duy trì kết quả PCGDTH - CMC; đẩy mạnh công tác PCGDTH đúng độ tuổi; tạo cơ sở vững chắc cho việc PCGDTHCS. Tiếp tục gắn PCGDTHCS với việc PCGDTH - CMC và PCGD tiểu học đúng độ tuổi. Những vùng khó khăn cần duy trì và nâng cao chuẩn PCGD tiểu học, không để mất chuẩn; tiến tới PCGD tiểu học đúng độ tuổi. Những nơi thuận lợi đã đạt chuẩn PCGDTHCS tiếp tục duy trì, củng cố kết quả đã đạt được và triển khai thực hiện nhiệm vụ PCGD trung học. Bên cạnh đó, xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng cũng như đồng bộ các môn học. Đối với những địa phương thiếu giáo viên, cần hợp đồng giáo viên đã về hưu, giáo sinh tốt nghiệp chưa có việc làm, để họ tham gia giảng dạy và làm công tác phổ cập. Mặt khác, tạo điều kiện để giáo viên ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số tăng cường khả năng tiếp cận và hòa nhập; tổ chức dạy tiếng các dân tộc cho giáo viên. Tiếp tục củng cố, nâng cấp nhà công vụ, quan tâm nhiều hơn cuộc sống vật chất, nhất là đời sống tinh thần, hạnh phúc riêng của giáo viên (điều kiện làm việc, khu sinh hoạt tập thể, văn nghệ - thể thao, thư viện). Có chính sách hỗ trợ phù hợp hơn cho người dạy, người học theo phương thức giáo dục không chính quy. Hỗ trợ đội tình nguyện dạy học ở vùng khó khăn cũng như các hoạt động văn hóa hè phục vụ cho các lớp phổ cập và chống mù chữ. Tăng cường khả năng tiếp cận và hòa nhập của các đối tượng phổ cập vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Vấn đề nâng cao chất lượng dạy tiếng phổ thông cho học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số cần được xem là nhiệm vụ quan trọng. Có kế hoạch phát triển mạng lưới trường THCS và trung tâm giáo dục thường xuyên cho những vùng khó khăn. Ưu tiên kinh phí, tập trung cao độ về nguồn lực cho những tỉnh khó khăn. Đặc biệt quan tâm những tỉnh, huyện, xã mới tách; bảo đảm để các đơn vị này có đủ điều kiện phấn đấu đạt chuẩn theo đúng kế hoạch.

Thực tế cho thấy, công tác tuyên truyền và xã hội hóa giáo dục đã tạo được phong trào toàn dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục thông qua các hoạt động thiết thực, hiệu quả của từng tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức đoàn thể. Thời gian còn lại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm tốt hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục; nhất là với các vùng khó khăn, để tăng cường sự tham gia, phối hợp, ủng hộ của các ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân vào công cuộc PCGDTH và THCS.