Phê bình văn học cần tương xứng với vai trò

Theo Từ điển 150 thuật ngữ văn học do nhà phê bình Lại Nguyên Ân biên soạn thì phê bình văn học là “phán đoán, bình phẩm, đánh giá và giải thích tác phẩm văn học, đồng thời kèm theo việc phán đoán, bình luận, giải thích, đánh giá những hiện tượng đời sống mà tác phẩm nói tới”. Từ định nghĩa này có thể thấy, phê bình văn học ở Việt Nam đã và đang xuất hiện một số hiện tượng cần khắc phục, điều chỉnh…

Mới đây, trang Bình luận văn nghệ của một tạp chí nổi tiếng về văn học có đăng bài Yếu tố tính dục trong văn xuôi hư cấu lịch sử Việt Nam đương đại. Từ cách đặt vấn đề “Văn xuôi sáng tạo về đề tài lịch sử đương đại có không ít tác phẩm khai thác đời sống tính dục, đặc biệt là tính dục của các nhân vật lịch sử được coi là thần tượng, huyền thoại dân tộc”, tác giả phân tích để khẳng định hai luận điểm: “Tính dục như là phương thức kiến tạo quan niệm mới về con người” và “Tính dục như là phương thức luận giải lịch sử, đối thoại văn hóa”. Với luận điểm thứ nhất, chí ít về hình thức, có thể thấy tác giả khiên cưỡng, hoặc không quan tâm đến tính toàn diện của con người - nhân vật văn học trong tính lịch sử của nó. Dù tác giả có dẫn ra hành vi tính dục của nhiều nhân vật trong một số tác phẩm về đề tài lịch sử để cho rằng “tình yêu, dục cảm tự nhiên trở thành tiếng nói thiêng liêng và sâu thẳm, khiến các nhân vật lịch sử “trở mình” sống lại và hơn nữa, được sống như-là-chính-mình” cũng không thể khẳng định “Tính dục như là phương thức kiến tạo quan niệm mới về con người”. Vì với tính tổng hòa của các quan hệ xã hội làm nên bản chất của con người, dù chỉ “như là”, thì một phương thức kiến tạo quan niệm cũ hay mới về con người vẫn luôn là sự thống nhất của rất nhiều yếu tố, không chỉ có tính dục. Nói cách khác, tính cách, nhận thức, suy nghĩ, hành động của con người (kể cả con người trong văn học) là kết quả tổng hòa từ tập hợp các quan hệ, các yếu tố có tính hiện thực, liên quan trực tiếp đến con người, và ở đó, dù tính dục được văn hóa hóa đến mức nào cũng không giữ vai trò chi phối. Với kết luận “Tính dục như là phương thức luận giải lịch sử, đối thoại văn hóa”, dường như tác giả “vẽ rắn thêm chân” hơn là tìm hiểu thấu đáo để có thể coi tính dục có thực sự như là phương thức “luận giải lịch sử, đối thoại văn hóa” hay không. Trong bài, tác giả cũng đưa ra một vài phê phán chiếu lệ, trong đó có các câu chữ khiến nhiều người không khỏi ngạc nhiên, như: “Một vài cây bút nhân danh đổi mới, tinh thần dân chủ, tự khoác cho mình quyền năng sáng tạo, hư cấu; khai thác quá mức các yếu tố thuộc bản năng tính dục làm méo mó, lệch lạc cái nhìn về các nhân vật được cộng đồng, dân tộc ngưỡng vọng, chiêm bái như Nam Dao với Gió lửa, Trần Vũ với Gia phả, Mùa mưa gai sắc, Nguyễn Thúy Ái với Trở về Lệ Chi Viên…”. Ngạc nhiên bởi Nam Dao, Trần Vũ là hai cây bút gốc Việt sinh sống ở nước ngoài, các tác phẩm của họ được liệt kê trong bài xuất bản đã khá lâu, và hoàn toàn không quan hệ gì với văn học trong nước, liệu có nên coi họ là “Một vài cây bút nhân danh đổi mới, tinh thần dân chủ” hay không?

Cách đây ít năm, để ca ngợi một tác phẩm được coi là “nổi tiếng”, một số nhà phê bình đã cố gắng bắt “sex” phải mang vác các thông điệp nằm ngoài khả năng của nó. Và cách thức ca ngợi một chiều ấy cũng nhanh chóng bị lãng quên. Vì xét từ bất cứ phương diện nào thì việc nhà phê bình tuyệt đối hóa vai trò của tính dục trong tác phẩm văn học cũng là phiến diện. Những tưởng đó chỉ là bốc đồng hay ngộ nhận nhất thời, nay trong bài viết trên, tác giả tiếp tục trở lại bằng cách lấy cái cá thể quy chiếu cái toàn thể, để từ đó “nâng tầm” tính dục như là “phương thức kiến tạo quan niệm mới về con người, luận giải lịch sử, đối thoại văn hóa”. Thiết nghĩ, nhà phê bình ý thức được vai trò của mình với sự tiếp nhận của bạn đọc thì không nên đưa ra các khẳng định như vậy, vì bài phê bình có thể đẩy bạn đọc vào quá trình từ bị cuốn theo đến lầm tưởng, lạc hướng, cổ vũ.

Có thể coi bài phê bình kể trên là thí dụ cho thấy phần nào thực trạng phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay - một thực trạng đang bộc lộ một số dấu hiệu thiếu tin cậy hơn là lạc quan. Trên báo chí, hằng ngày vẫn xuất hiện những bài viết được coi như phê bình văn học, song xét đến cùng đó chủ yếu là bài phê bình quảng cáo. Loại bài phê bình này thường xuất hiện vào thời điểm một cuốn sách mới được xuất bản, tổ chức giới thiệu. Thường thì sau khi nơi xuất bản, phát hành đưa ra thông cáo báo chí về cuốn sách mới, lập tức văn bản này xuất hiện la liệt trên nhiều tờ báo dưới nhiều dạng thức, từ đăng tải toàn bộ tới bình luận dăm ba câu có kết hợp trích đoạn, cắt - dán. Điểm nổi bật của phê bình quảng cáo là bất luận cuốn sách hay - dở thế nào cũng luôn được người viết ca ngợi hết lời, thậm chí còn được coi như “tuyệt tác”. Từ tình trạng chỉ sau ít ngày, đa số cuốn sách đó không còn được nhắc tới, phải lui vào quầy hạ giá, thì có thể nói xét trên phương diện nhất định, phê bình như vậy là xa rời những tiêu chí cơ bản của phê bình, thậm chí là “đánh lừa người đọc”. Trong một số trường hợp, bài phê bình loại này khá tương đồng với quảng cáo sữa tươi nguyên chất mà thực chất được pha chế từ sữa bột, hoặc quảng cáo thuốc trị ung thư làm từ bột than tre,… như dư luận vẫn phê phán gay gắt!

Một hiện tượng khác trong phê bình văn học là tiếp nhận một số lý thuyết nước ngoài mới du nhập. Về khoa học, điều này là không sai, vấn đề là tiếp nhận như thế nào, có lĩnh hội một cách sâu sắc hay không và lý thuyết có phù hợp với văn học, tâm thế, bối cảnh lịch sử,… ở Việt Nam hay không. Nhưng một số nhà phê bình ở Việt Nam dường như không quan tâm vấn đề này, nên qua thực hành nghề nghiệp đã tự đẩy mình vào thế chênh vênh giữa lý luận và thực tiễn. Thí dụ, bởi nữ quyền không được tôn trọng, bị hạn chế,… mà văn học nữ quyền đã ra đời tại một số nước, được coi như là công cụ đấu tranh vì quyền của phụ nữ. Với Việt Nam, từ năm 1945 đến nay, nữ quyền đã được khẳng định, bảo đảm, củng cố, xã hội có chính sách cụ thể để quyền của phụ nữ được thực hiện; tuy nhiên một số nhà phê bình lại “đào bới” từ một số tác phẩm để “phát hiện” văn học nữ quyền, nghĩa là cổ vũ văn học đấu tranh cho những quyền mà phụ nữ đã và đang thụ hưởng. Tương tự, hẳn vì thiếu quan tâm xem xét, một số nhà phê bình như ngỡ rằng thời hậu thực dân tại Việt Nam cũng trùng hợp với thời hậu thực dân ở các nước khác, cho nên ra sức cổ vũ, ứng dụng lý thuyết hậu thực dân. Trên thực tế, lý thuyết hậu thực dân ra đời ở các nước mà sau khi kết thúc thời thực dân, xã hội vẫn bị một số biến thể khác nhau của chế độ người bóc lột người thao túng, và văn học vẫn cần phải lên tiếng để bênh vực các cá nhân, nhóm cá nhân bị bóc lột, bỏ rơi, thân phận xã hội thấp kém…, nhất là để thoát ly khỏi sự chi phối của “nước mẹ thực dân”. Qua vận dụng lý thuyết hậu thực dân vào phê bình văn học Việt Nam có thể thấy nhà phê bình chưa chú ý một điều đơn giản là thời hậu thực dân ở Việt Nam khác biệt về bản chất so với thời hậu thực dân ở các nước khác, và văn học Việt Nam cũng có khác biệt cơ bản, không tương thích với lý thuyết hậu thực dân. Để tránh áp đặt khiên cưỡng, không “gọt chân cho vừa giày”, không tiếp thu thiếu chọn lọc,… thiết nghĩ nhà phê bình văn học cần quan tâm tới vấn đề này.

Trên thực tế, sau khi đọc một tác phẩm văn học, bạn đọc đều có thể nhận xét về tác phẩm; nhận xét đó hay hoặc dở, sâu sắc hay hời hợt, tinh tế hay thô giản cũng không phải yêu cầu bắt buộc. Còn định nghĩa về phê bình văn học như đã dẫn ở trên lại cho thấy phê bình văn học là công việc phức tạp, là kết quả của sự tích tụ các phẩm chất liên quan năng lực cảm thụ, năng lực trí tuệ. Nói cách khác, nhà phê bình có vai trò như là người đọc có trình độ cao và được người đọc tin cậy. Nếu nhà phê bình thiếu tự ý thức về vai trò xã hội - nghề nghiệp, còn để sự cảm tính, chủ quan chi phối, hoặc để yếu tố “ngoài văn chương” ảnh hưởng tới thực hành nghề nghiệp, thì rất dễ tự hạn chế khả năng bình phẩm, đánh giá, hoặc giảm thiểu cảm xúc sinh động, chân thực đã có sau khi đọc tác phẩm. Để một nền văn học phát triển, bên nỗ lực của các nhà văn, còn cần cả sự nỗ lực của các nhà phê bình. Nhưng phải là phê bình với các phán đoán, bình phẩm, đánh giá, giải thích tác phẩm văn học thật sự thuyết phục, qua đó gợi mở, giúp bạn đọc khám phá, cảm thụ sâu sắc hơn về tác phẩm, chứ không phải là “phê bình cánh hẩu, phê bình ve vuốt, phê bình à ơi” như từng được khái quát, định danh. Muốn vậy, người viết phê bình cần dấn mình vào quá trình đào tạo và tự đào tạo, về mặt xã hội, các nhà trường và cơ quan liên quan cũng như báo chí cần có quan niệm khách quan, đúng đắn hơn về vai trò của phê bình trong đời sống văn học. Nếu nhà trường chú ý lựa chọn người có khả năng để đào tạo, cơ quan chức năng chú ý tạo điều kiện để người viết phê bình có điều kiện làm việc, thì các cơ quan báo chí cũng cần quan tâm đến việc đăng tải, chế độ nhuận bút, đặc biệt là chỉ nên đăng bài phê bình chất lượng, không biến phê bình văn học thành một phương tiện quảng cáo, hoặc là công cụ để một số người tâng bốc lẫn nhau.

Có thể bạn quan tâm