Mục tiêu của đề án là phát triển mắc-ca thành ngành hàng sản xuất hiệu quả, bền vững, góp phần thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường và bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.
Đề án phấn đấu sản lượng mắc-ca qua chế biến đạt khoảng 130.000 tấn hạt vào năm 2030, khoảng 500.000 tấn hạt vào năm 2050. Giá trị kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mắc-ca đạt khoảng 400 triệu USD vào năm 2030, khoảng 2,5 tỷ USD vào năm 2050, trong đó tỷ lệ sản phẩm mắc-ca nguyên vỏ không vượt quá 40%.
Theo định hướng, quy mô diện tích trồng phấn đấu tổng diện tích mắc-ca cả nước đạt từ 130.000-150.000 ha vào năm 2030, tập trung tại các tỉnh vùng Tây Bắc (khoảng 75.000-95.000 ha, chủ yếu tại các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu), vùng Tây Nguyên (khoảng 45.000 ha, chủ yếu tại các tỉnh: Lâm Đồng, Đắk Nông, Kon Tum) và một số địa phương có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp với yêu cầu sinh thái của cây mắc-ca (khoảng 10.000 ha), được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các địa phương xác định quy mô và địa điểm cụ thể trên cơ sở đánh giá kỹ lưỡng tiềm năng, năng lực đầu tư, quỹ đất, hiệu quả về kinh tế, xã hội, môi trường và nhu cầu thị trường.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá hiệu quả phát triển mắc-ca giai đoạn 2021-2030, sẽ định hướng cụ thể về quy mô diện tích và vùng trồng mắc-ca đến năm 2050, phấn đấu đạt khoảng 250.000 ha.
Về cơ sở chế biến, đến năm 2030 khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở sơ chế, chế biến mắc-ca gắn với vùng trồng nguyên liệu tại vùng Tây Bắc và Tây Nguyên; nâng cấp 65 cơ sở sơ chế, chế biến hiện có, xây dựng mới khoảng 300-400 cơ sở sơ chế, chế biến, công suất mỗi cơ sở từ 100-200 tấn hạt/năm; tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng khoảng 8 nhà máy chế biến sâu các sản phẩm mắc-ca có giá trị cao, công suất mỗi cơ sở từ 10.000-15.000 tấn hạt tươi/năm tại những địa phương có điều kiện thuận lợi.
Xây dựng vùng trồng mắc-ca tập trung
Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với nông dân sản xuất mắc-ca thông qua cầu nối hợp tác xã và tổ hợp tác xây dựng vùng trồng mắc-ca tập trung, hình thành chuỗi ngành hàng mắc-ca từ trồng đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Các nhà khoa học hỗ trợ các địa phương nghiên cứu vùng trồng mắc-ca thích hợp cho từng dòng/giống; chuyển giao khoa học công nghệ từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế và chế biến sản phẩm cho các hộ gia đình và doanh nghiệp.
Xây dựng thương hiệu sản phẩm mắc-ca
Để phát triển thị trường tiêu thụ, giải pháp đặt ra đối với thị trường trong nước, các địa phương cần hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm mắc-ca, gắn với chỉ dẫn địa lý; thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, tuyên truyền, giới thiệu để người tiêu dùng trong nước có đủ thông tin về sản phẩm mắc-ca.
Đối với thị trường xuất khẩu, các địa phương tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, Hiệp hội mắc-ca Việt Nam và doanh nghiệp thực hiện các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu, tháo gỡ rào cản thương mại; tập trung thực hiện các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch sản phẩm nhân và hạt mắc-ca nguyên vỏ, các sản phẩm mắc-ca chế biến sâu vào thị trường các nước…
Cây mắc-ca đã được nhập về trồng ở Việt Nam, trồng thử nghiệm đầu tiên tại Ba Vì (Hà Nội) sau đó được trồng tại Đăk Lăk, Lâm Đồng (Di Linh, Bảo Lộc, Đơn Dương, Lâm Hà). Cây mắc-ca là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế cao. Hạt mắc-ca có hàm lượng dinh dưỡng cao và hương vị thơm ngon, đặc biệt thích hợp trong chế biến thực phẩm. Nhân hạt có mùi thơm nhẹ, có thể dùng làm nhân bánh ngọt, nhân chocolate, kem, bánh hộp, hoặc ăn trực tiếp ở dạng đồ hộp rất được ưa chuộng ở Mỹ, châu Âu.