Đây là một trong những hoạt động nhân kỷ niệm 150 năm Ngày sinh nhà yêu nước Phan Châu Trinh (9/9/1872-9/9/2022) - người con ưu tú quê hương Quảng Nam; người khởi xướng, vận động và lãnh đạo Phong trào Duy tân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam mà tên tuổi và sự nghiệp gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào đầu thế kỷ XX.
Đồng chí Phan Việt Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Nam cùng nhà sử học Dương Trung Quốc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lê Trí Thanh; Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trần Văn Tân và Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam Nguyễn Thanh Hồng chủ trì hội thảo.
Tham dự hội thảo, có hơn 200 đại biểu khách mời, đại biểu gia tộc nhà yêu nước Phan Châu Trinh và các nhà khoa học, nhà nghiên cứu.
Tại Hội thảo, Ban Tổ chức đã nhận được hơn 60 tham luận của các đồng chí lãnh đạo, nhà khoa học, nhà nghiên cứu trên cả nước, tập trung phân tích, khai thác về bối cảnh thời đại tác động đến tư tưởng của nhà yêu nước Phan Châu Trinh; tư tưởng canh tân của nhà yêu nước Phan Châu Trinh; sự ảnh hưởng của Phong trào Duy tân và tư tưởng canh tân đối với xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Đồng thời, các đại biểu đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm phát huy các giá trị tư tưởng canh tân, đổi mới của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, nhất là tư tưởng về xây dựng ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại.
Nhiều ý kiến đề nghị cần phát huy giá trị tư tưởng canh tân của nhà yêu nước Phan Châu Trinh trong giai đoạn hiện nay.
Phát biểu tại Hội thảo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh nhấn mạnh, hơn 20 năm hoạt động cứu nước, ông đã cống hiến trọn đời mình cho nhân dân, cho dân tộc, từ bị giam cầm trong lao tù, vất vả lao động kiếm sống nơi đất khách quê người và lúc trở về cõi vĩnh hằng trong lòng vẫn mong cho dân tộc được độc lập, nhân dân được ấm no, hạnh phúc.
Với tấm lòng yêu nước, thương dân ấy, nhân dân Việt Nam đã ghi tạc hình ảnh nhà yêu nước đi tiên phong trong phong trào canh tân, dân sinh, dân chủ.
Ngày nhà yêu nước Phan Châu Trinh qua đời, cả nước để quốc tang, nhân dân Quảng Nam cũng tràn đầy tình sâu nghĩa nặng. Đám tang của cụ là sự kiện chính trị nổi bật nhất lúc bấy giờ, đã trở thành cuộc vận động và tiền đề cho phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng.
Ghi nhận những đóng góp, cống hiến to lớn của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, thời gian qua, nhiều tên trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu học, nhiều tuyến đường lớn, quan trọng trên cả nước được vinh dự mang tên Phan Châu Trinh.
Tại tỉnh Quảng Nam đã thành lập giải thưởng Phan Châu Trinh. Mộ cụ Phan Châu Trinh tại phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh được Bộ Văn hóa thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích lịch sử quốc gia vào ngày 12/12/1994. Địa điểm Nhà lưu niệm Phan Châu Trinh (tại xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam) được công nhận di tích lịch sử quốc gia (tại Quyết định số 67/2005/QĐ-BVHTT) ngày 16/11/2005.
Qua Hội thảo lần này, Ban Tổ chức mong muốn các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các đại biểu tiếp tục có những ý kiến đóng góp, đưa ra những nhận định, nguồn tài liệu, tư liệu mới và các góc nhìn, cách tiếp cận mới để nhận diện và tiếp tục làm sáng tỏ thêm về tư tưởng canh tân của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, nhất là việc vận dụng tư tưởng canh tân của bộ ba "Tam kiệt Quảng Nam" (Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng), mà trong đó, nhà yêu nước Phan Châu Trinh đóng vai trò khởi xướng, vào công cuộc đổi mới, xây dựng ý chí tự lực tự cường, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, tỉnh Quảng Nam giàu mạnh.
Sáng cùng ngày, các đồng chí lãnh đạo Trung ương cùng lãnh đạo tỉnh Quảng Nam, huyện Phú Ninh, xã Tam Lộc và đại diện gia tộc nhà yêu nước Phan Châu Trinh... đã đến dâng hương tưởng niệm; đồng thời thực hiện nghi thức khởi công dự án tu bổ, nâng cấp, mở rộng di tích địa điểm Nhà lưu niệm cụ Phan Châu Trinh tại xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh (Quảng Nam), với tổng mức đầu tư 30 tỷ đồng từ ngân sách tỉnh.
Ngoài ra, trong dịp này, tại huyện Phú Ninh, quê hương của nhà yêu nước Phan Châu Trinh đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch, trưng bày triển lãm hình ảnh, hiện vật, tài liệu, sách báo liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của nhà yêu nước Phan Châu Trinh; tổ chức cuộc thi trực tuyến tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cụ Phan Châu Trinh...
Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đầy biến động, tuổi thơ của Nhà yêu nước Phan Châu Trinh đã trải qua nhiều gian nan cơ cực cùng với sự thăng trầm của lịch sử dân tộc: năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, năm 1861 chiếm Nam Kỳ, năm 1873 chiếm Bắc Kỳ và năm 1885 chiếm kinh thành Huế; Việt Nam trở thành thuộc địa của nước Pháp. Trước cảnh đau thương ấy, phong trào Cần Vương bùng nổ. Tại tỉnh Quảng Nam, Nghĩa hội Quảng Nam là một trong những tổ chức hoạt động chống Pháp rất kiên cường và anh dũng. Hòa mình với khí thế hừng hực đánh giặc, Phan Châu Trinh theo học võ với nghĩa quân Nghĩa hội Quảng Nam đến năm 1887.
Sau khi cha mất, phong trào Nghĩa hội bị đàn áp, Phan Châu Trinh về quê tiếp tục đi học. Năm 1892, ông kết bạn với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp khi theo học với thầy Mã Sơn - Trần Đình Phong, một nhà giáo có đức độ, chí khí, tận tâm đào tạo nhân tài cho Quảng Nam để sau này có điều kiện giúp dân, cứu nước.
Năm 1900, Phan Châu Trinh thi đỗ cử nhân, một năm sau đỗ phó bảng nhưng phải trở về quê lo đám tang anh ruột và ở lại quê nhà dạy học. Năm 1903, Phan Châu Trinh được bổ nhiệm Thừa biện Bộ lễ, trong thời gian ở Huế, ông có điều kiện đọc sách về công cuộc duy tân ở Nhật Bản, tiếp cận chủ thuyết Tam dân “Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc" của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, cùng với xu hướng dân chủ tư sản của các nhà dân chủ Pháp và những kế sách cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ... đã tác động mạnh mẽ, chuyển biến trong tư tưởng của Phan Châu Trinh. Vì vậy, tuy sống và làm quan ở kinh đô nhưng tấm lòng luôn mang nặng nỗi đau của người dân mất nước. Do đó, năm 1904, ông đã từ quan trở về quê, tại làng Thạnh Bình (huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam) gặp Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu để bàn việc cứu nước.
Sau khi đàn áp và dập tắt phong trào Cần Vương, từ những năm cuối thế kỷ 19, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất.
Nhân dân ta "một cổ hai tròng" bị bóc lột bởi sưu cao, thuế nặng cộng với chính sách chia để trị, kìm hãm sản xuất, vơ vét tài nguyên cung cấp cho chính quốc.
Trước cảnh lầm than của nhân dân, Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước phải từ nội lực của nhân dân, cứu nước trước hết phải cứu dân, từ đó ông đưa ra chủ thuyết canh tân "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh"…
Với tư tưởng tự tôn dân tộc, Phan Châu Trinh vận động "Dĩ thương hợp quần", thành lập nhiều thương hội để tập hợp những người yêu nước, lo cho dân giàu, nước mạnh; trong đó, Quảng Nam là nơi đầu tiên thực nghiệm chủ trương này với Hiệp thương Công ty ở Hội An, Thương học Công ty ở Tiên Phước, nhiều đồn điền khai khẩn ở Điện Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn... được thành lập.
Về dân trí, các trường học duy tân được tổ chức, trong đó tập trung nhiều nhất tại Quảng Nam như ở: Phước Bình, Phú Lâm, Đại Lộc... Với sự thành công của các mô hình cải cách tiến bộ này, các nhân sĩ yêu nước ở các tỉnh thành đã học tập, tiếp thu và nhân rộng ra cả nước.
Từ nền tảng tư tưởng dân chủ, dân sinh được bén rễ ở nông thôn và dưới ảnh hưởng hoạt động của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, nhân dân nhiều nơi trên cả nước không thể chịu nổi áp bức, cường quyền, cuộc sống lầm than cơ cực, đã nhất tề vùng lên; phong trào chống sưu thuế là kết quả tất yếu của Phong trào Duy tân do Nhà yêu nước Phan Châu Trinh khởi xướng, trong đó quy mô lớn nhất được khởi phát từ chính quê hương Quảng Nam vào năm 1908. Từ đây, Phong trào nhanh chóng lan ra khắp nơi ở Trung Kỳ, từ Thanh Hóa đến Bình Thuận.
Lần đầu tiên trong lịch sử, có những cuộc biểu tình nổi dậy đòi dân sinh, dân chủ thể hiện sức mạnh của quần chúng nhân dân lao động, làm rung động cả chính quyền thực dân và phong kiến tay sai. Lúc bấy giờ, khắp nơi trong cả nước đã tung các truyền đơn, khẩu hiệu phát huy tinh thần của nhân dân Quảng Nam "Gan thay dân Quảng Nam. Oanh liệt thay dân Quảng Nam"!
Trước sức mạnh như triều dâng thác đổ của phong trào chống sưu thuế; thực dân Pháp và tay sai đã đàn áp dã man, hàng nghìn nông dân bị giết, bị tra tấn, bị tù đày; các chí sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị bắt đày đi Côn Đảo. Không thể làm lung lay ý chí của nhà yêu nước Phan Châu Trinh, ba năm sau, thực dân Pháp buộc phải trả tự do, nhưng lại giam lỏng ông ở Mỹ Tho.
Trước sức ép phản đối quyết liệt của các chí sĩ và sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, thực dân Pháp phải cho ông ra nước ngoài cùng con trai là Phan Châu Dật vào cuối năm 1911.
Đến nước Pháp, Nhà yêu nước Phan Châu Trinh tiếp tục đấu tranh, ông viết các tác phẩm nêu rõ thực trạng bần cùng của xã hội và tố cáo chính sách bóc lột của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Năm 1914, Phan Châu Trinh bị bắt giam vào ngục Santé vì bị vu cáo thân nước Đức, chống Pháp. Một lần nữa, khí phách của Nhà yêu nước Phan Châu Trinh được thử thách trong gông cùm lao tù; nhưng dù trong hoàn cảnh nào, từ Côn Đảo đến Mỹ Tho hay nhà tù thực dân, Phan Châu Trinh vẫn không ngừng đấu tranh cho lý tưởng độc lập dân tộc, dân chủ của nhân dân Việt Nam.
Tháng 7/1915, ra tù, cũng như mọi người dân mất nước nơi đất khách quê người, Phan Châu Trinh phải lao động khổ nhọc để kiếm sống và hoạt động. Hoạt động của ông trong thời gian ở Pháp rất phong phú; ông giao tiếp với nhiều Việt kiều, nhà yêu nước, nhân sĩ tiến bộ như luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh... và cùng các nhân sĩ trí thức thành lập "Hội đồng bào thân ái" tại Pháp.
Chính tấm lòng lo cho dân, cho nước ấy mà nhà yêu nước Phan Châu Trinh được mọi người yêu mến, kính trọng. Trong khoảng thời gian này, chiêm nghiệm lại sự thành bại của mình và nhận thấy con đường cứu nước đối với nhân dân Việt Nam không thể theo khuynh hướng dân chủ tư sản, với tri thức nhạy bén và qua kết thân với nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc, Phan Châu Trinh đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin và đã có tầm nhìn xa về tương lai của Nguyễn Ái Quốc, kỳ vọng vào Nguyễn Ái Quốc mà sau này nhà yêu nước Phan Châu Trinh nói: "Độc lập của nước Nam ta sẽ trông cậy vào Nguyễn Ái Quốc".
Tuy ở ngoài nước, nhưng tấm lòng hướng về Tổ quốc vẫn không nguôi trong con người của Phan Châu Trinh, ông tìm mọi cách để về nước hoạt động nhưng không được.
Năm 1925, chính sách thuộc địa có thay đổi, đặc biệt tình hình cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, nhà yêu nước Phan Châu Trinh về quê hương sau 14 năm ở Pháp.
Nhưng do lao tâm, lao lực quá nhiều, bệnh cũ tái phát, ngày 24/3/1926, Phan Châu Trinh vĩnh viễn ra đi tại Sài Gòn trong vô vàn tiếc thương của nhân dân cả nước…