Thực hiện tự do hóa mậu dịch trong ASEAN sẽ làm tăng lượng hàng nhập khẩu từ các nước khu vực vào Việt Nam, áp lực cạnh tranh hàng hóa liệu có ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh nói riêng ?
Những áp lực
Từ năm 2004 đến nay, các trung tâm, siêu thị điện máy ở TP Hồ Chí Minh liên tục giảm giá các mặt hàng điện tử, điện máy nhập khẩu có nguồn gốc từ các nước ASEAN từ 5 đến 10%/năm so với mức giá trước năm 2006. Riêng hàng điện tử, điện máy gia dụng phổ thông như bàn là, nồi cơm điện, bếp ga, lò vi sóng, lò nướng, máy xay sinh tố... có mức giảm khá cao từ 15 đến 20%/năm. Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh cho biết, việc thực hiện AFTA đã khiến số thu thuế nhập khẩu từ khu vực ASEAN giảm mỗi ngày từ hai đến ba tỷ đồng. Tại các chợ chạy, chợ chồm hổm, chợ chui mọc lên ở các khu chung cư, khu chế xuất, khu công nghiệp đến các chợ lớn như Bến Thành, Tân Ðịnh, Bà Chiểu, hàng các nước Thái-lan, Malaysia, Singapore, Indonesia... được bày bán khá nhiều. Từ cây kim, sợi chỉ, kẹp và dây buộc tóc đến đồng hồ, bát, đĩa, mỹ phẩm, đồ chơi trẻ em, máy nghe nhạc, nồi cơm điện, giày, dép, quần áo, dụng cụ nhà bếp... giá rất rẻ. Chẳng hạn, cùng một loại bát thủy tinh, giá bán tại siêu thị 16 nghìn đồng/cái song ở các chợ chỉ 10 nghìn đồng, dép nhựa ở các siêu thị từ 25 nghìn đến 28 nghìn đồng/đôi, ở các chợ là 18 nghìn đồng. Một chai sữa tắm DOVE (loại 450 ml) chính hãng 49 nghìn đồng/chai song ở các chợ 14 nghìn đồng. Một hộp nồi (gồm ba loại xào, kho, nấu cơm sử dụng ga) ở các chợ là 230 nghìn đồng có khuyến mãi thêm một chảo chiên nhỏ trong khi tại các siêu thị 330 nghìn đồng không khuyến mãi.
Ði tìm câu hỏi vì sao một số mặt hàng từ các nước khu vực ASEAN rẻ hơn hàng Việt Nam, các doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh cho biết: "Hàng ta do mẫu mã đơn điệu, chất lượng không ổn định, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng lực quản lý, trình độ khoa học - công nghệ chưa cao... dẫn đến chi phí lớn, giá thành cao". Theo tính toán, trong công nghiệp năng suất lao động bình quân thấp hơn 2-15 lần các nước ASEAN, mức tiêu hao năng lượng và nguyên liệu cho một đơn vị sản phẩm cao hơn 1,2 - 1,5 lần, các thủ tục hành chính vẫn rườm rà, chồng chéo. Chi phí kinh doanh cao nhất trong khu vực với 15 khoản chi phí khác nhau như "không tên", "ngoài luật", "bôi trơn", "bồi dưỡng"... chiếm từ 20 đến 30% giá sản phẩm vì vậy giá thành của hàng hóa Việt Nam thường cao hơn giá thành sản phẩm cùng loại của các nước khu vực. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN năm 2004 đạt ba tỷ USD (nhỉnh hơn năm 2001) trong khi nhập khẩu tăng mạnh.
Lợi thế sân nhà
Ông Bùi Quang Ðô, Chủ tịch Hiệp hội Ðiện tử và các ông Hồng Kỳ, Tổng giám đốc VIETTRONIC Tân Bình; Nguyễn Văn Bình, Tổng giám đốc Công ty CP VIETTRONIC Biên Hòa; Nguyễn Văn Ðạo (SAMSUNG), Nguyễn Ðình Tường (may Việt Tiến), chị Hồ Thị Kim Thoa (Ðiện Quang), chị Kiều Liên (VINAMILK)... cho biết: các doanh nghiệp đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình giảm thuế của khối ASEAN. Theo khảo sát của Hiệp hội Ðiện tử Việt Nam giá giảm nhiều chỉ tập trung ở mặt hàng gia dụng phổ thông được nhập khẩu nguyên chiếc, còn các mặt hàng trung, cao cấp như máy thu hình màn hình phẳng 21-25 inches, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, quạt máy của Việt Nam không thua kém, thậm chí còn "nhỉnh" hơn hàng của các nước ASEAN cả về chất lượng, tính năng và mẫu mã. Ðại diện các doanh nghiệp điện tử nhấn mạnh: "Nhà nước áp dụng đúng mức thuế suất, chúng tôi tận dụng lợi thế sân nhà và nguồn nhân lực thì không những cạnh tranh với hàng ngoại nhập mà còn có thể xuất khẩu ngược trở lại các nước ASEAN một khi hàng rào thuế quan hoàn toàn được gỡ bỏ". Theo Công ty nhựa Chợ Lớn, "để sống chung với hàng ngoại ASEAN" doanh nghiệp tìm lối đi riêng bằng đầu tư thiết bị, dây chuyền hiện đại, sản xuất các mặt hàng chất lượng cao đồng thời liên tục thay đổi mẫu mã. Bằng cách này một số sản phẩm của nhựa Chợ Lớn đã và đang bước đầu giành lại thị phần và có phần thắng thế so với mặt hàng cùng loại của các nước như đồ chơi xe điện rẻ hơn khoảng 30% so với hàng Trung Quốc và ASEAN, rẻ hơn khoảng 45% so với hàng Nhật Bản và Ðài Loan. Tự tin khi hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện khá rõ ở Công ty bóng đèn Ðiện Quang. Bà Hồ Thị Kim Thoa cho biết: nhờ tập trung đầu tư nhập máy móc thiết bị tiên tiến, Công ty bóng đèn Ðiện Quang có khả năng thực hiện những đơn đặt hàng lớn. Doanh nghiệp đủ khả năng cạnh tranh về chất lượng, giá cả kể cả khi giảm thuế theo lộ trình AFTA. Hiện Công ty bóng đèn Ðiện Quang xuất khẩu sang 10 nước Trung Ðông và châu Á với kim ngạch xuất khẩu tăng 40%. Về chất lượng, tuổi thọ trung bình của bóng đèn Ðiện Quang gấp ba lần bóng đèn cùng loại của Trung Quốc. Với mặt hàng gạo, năm 2005 là năm đầu Việt Nam xuất khẩu 4,7 triệu tấn, cao nhất trong 17 năm với kim ngạch xuất khẩu 1,3 tỷ USD, liên tục thắng thầu ở Philippines, Indonesia, Nhật Bản, giá cạnh tranh với các nước khu vực. Tháng 1-2006, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã trúng thầu ký kết hợp đồng xuất khẩu một triệu tấn gạo, trong đó Philippines 400 nghìn tấn, Indonesia 150 nghìn tấn. Các mặt hàng thủy hải sản, nông sản, các mặt hàng chế biến từ sữa của Công ty VINAMILK cạnh tranh lấn lướt mặt hàng cùng loại ở khu vực Ðông - Nam Á nhờ vào công nghệ thiết bị thuộc loại hiện đại của thế giới, năm 2006, Công ty sữa Việt Nam đang chuẩn bị mọi điều kiện để thực hiện kim ngạch xuất khẩu 200 triệu USD với doanh thu nội địa 7.000 tỷ đồng.
Thực hiện tốt lộ trình AFTA
Theo lộ trình AFTA, Việt Nam có ba nhóm hàng hóa chính: nhóm nhạy cảm cần bảo hộ, nhóm bình thường và nhóm không cần bảo hộ. Với nhóm hàng hóa cần bảo hộ, ba năm nay, Bộ Tài chính thực hiện chính sách nâng thuế nhập khẩu lên sau đó hạ xuống từ từ để các doanh nghiệp trong nước "làm quen" với áp lực cạnh tranh từ các nước trong khu vực. Hàng hóa thuộc nhóm bình thường áp dụng lộ trình chung. Với nhóm hàng hóa không cần bảo hộ, Việt Nam sẵn sàng mở cửa như gạo, rau quả, chuẩn bị đến năm 2013, thực hiện thuế suất 0% trong cả khu vực. Việc cắt giảm thuế hình thành khu vực mậu dịch tự do, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước trong khối ASEAN thâm nhập thị trường lẫn nhau. Ba năm nay, nhờ tập trung đầu tư đổi mới thiết bị, ổn định chất lượng sản phẩm và nâng cao năng suất lao động hàng Việt Nam xuất sang thị trường ASEAN chỉ chiếm 14,6% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam (trước đó chiếm 19-20%), trong khi đó nhập khẩu vẫn giữ mức một phần tư tổng kim ngạch nhập khẩu. Một số thị trường như Philippines xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh chủ yếu là mặt hàng gạo (chiếm hai phần ba kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam). Thái-lan nhập khẩu nhiều mặt hàng dầu thô, than đá, hàng nông, hải sản của Việt Nam.
Nhìn chung khả năng thâm nhập thị trường khu vực của Việt Nam hạn chế chủ yếu do các doanh nghiệp Việt Nam "quá" quan tâm thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU mà "quên" thị trường khu vực. Trong kim ngạch xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp lớn, tỷ lệ xuất sang các nước ASEAN luôn ở mức khiêm tốn. Chính vì vậy hàng nhập khẩu của ASEAN từ cuối năm 2004 đến nay vào Việt Nam tăng khá mạnh, chủ yếu là những sản phẩm trong nước chưa sản xuất hoặc chưa đáp ứng đủ nhu cầu như hạt nhựa, phân bón, xăng dầu, nguyên phụ liệu ngành dệt và may, máy móc thiết bị, phụ tùng.
Theo các doanh nghiệp Việt Nam nhất là doanh nghiệp ở TP Hồ Chí Minh như Kinh Ðô, CASUMINA, BITI'S, VINAMILK... thì họ đã sẵn sàng để cạnh tranh với doanh nghiệp khu vực ở thế bình đẳng trong một số lĩnh vực sản xuất linh kiện, điện tử và máy tính, xe đạp, xe máy, thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, sản phẩm nhựa, da giày, thực phẩm chế biến, v.v... Ðiều quan trọng nhất để doanh nghiệp trong nước cạnh tranh và mở rộng thị phần khu vực, đứng vững ở thị trường trong nước, chủ động chuẩn bị tham gia hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ gói gọn ở giá thành và chất lượng sản phẩm mà còn là năng lực tổ chức tiếp thị và phát triển mạnh ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm nhập siêu phụ tùng thiết bị, nguyên liệu, tận dụng thời cơ khi mở rộng thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu tạo dựng kênh phân phối hàng Việt Nam tại ASEAN và tranh thủ nhập khẩu nguyên liệu sản xuất từ các nước tham gia Hiệp định do không phải chịu thuế nhập khẩu.