Với tư tưởng giáo lý Ðức Phật về trí tuệ, từ bi, đoàn kết hòa hợp, hòa bình, phát triển và tiến bộ xã hội, Ðại lễ Vesak được tổ chức tại Việt Nam lần này Ủy ban tổ chức Quốc tế (IOC) quyết định lấy chủ đề: "Sự đóng góp của Phật giáo trong việc xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Ðây là chủ đề lớn và mang tính chủ đạo xuyên suốt đại lễ. Bên cạnh đó, Ban tổ chức còn bố trí bảy phòng hội thảo tập trung vào các vấn đề có tính thời sự đối với toàn cầu hiện nay: Quan điểm của Phật giáo trong việc giải quyết các vấn đề chiến tranh và xung đột; sự đóng góp của Phật giáo đối với công bằng xã hội; Phật giáo nhập thế và phát triển; giải pháp của Phật giáo về sự biến đổi khí hậu và chăm sóc môi sinh; thực hành và ứng dụng Phật giáo đối với các vấn đề gia đình và xung đột thế hệ; tính kế thừa và phát triển của giáo dục Phật giáo và Phật giáo trong thời đại kỹ thuật số với sáng kiến thiết lập mạng lưới bản đồ văn hóa điện tử Phật giáo.
Những nội dung đề cập ở trên, đã thấy được tính thiết thực của giáo lý đạo Phật đối với cuộc sống xã hội mà chúng ta đang sống, dĩ nhiên không phải là bây giờ mới thể hiện mà đã được kết tập trong tư tưởng giáo lý đức Phật hàng nghìn năm thông qua Tam Tạng Kinh điển. Nội dung của chủ đề rộng lớn, vì thế chúng tôi chỉ xin tập trung đề cập một số vấn đề liên quan được thể hiện qua những nội dung cụ thể để chúng ta cùng suy ngẫm.
Từ - Bi - Hỷ - Xả là bốn vô lượng tâm, hay còn gọi là tứ vô lượng tâm, tứ đẳng, tứ phạm hạnh và tứ thiền của giáo lý đức Phật. Từ vô lượng tâm nghĩa là tâm có thể đem lại niềm vui sướng cho chúng sinh; Bi vô lượng tâm nghĩa là tâm có thể trừ khổ cho chúng sinh; Hỷ vô lượng tâm nghĩa là tâm vui mừng khi thấy người khác khỏi khổ được sướng và Xả vô lượng tâm như ba tâm trên, xả bỏ mà tâm chẳng còn chấp trước nhằm đạt được vô lượng phúc, nên gọi là vô lượng tâm.
Thấm nhuần tư tưởng giáo lý đó, ngay từ những năm đầu của kỷ nguyên thứ nhất, đạo Phật được truyền vào nước ta đã được các tầng lớp nhân dân đón nhận và phát triển; khắp chốn thôn quê, thành thị đều có những mái chùa thờ Phật mang đậm nét văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc; đất nước hưng thịnh thì Phật giáo được xiển dương. Vì vậy, mọi Phật sự của tăng ni, phật tử luôn xuất phát từ lợi ích dân tộc, vì sự an lạc của cuộc sống nhân sinh và tiến bộ xã hội. Ðinh - Lê - Lý - Trần là những triều đại được coi là hưng long, thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, cũng là những triều đại Phật giáo được coi là nền tảng của đạo đức xã hội. Với tinh thần hòa quang đồng trần, nhiều tăng ni, phật tử đã nhập thế để hộ trì đất nước như ngài Ngô Chân Lưu được vua Ðinh Tiên Hoàng phong là Khuông Việt đại sư, luôn tham vấn cho triều đình về những kế sách ích nước lợi dân. Vạn Hạnh Quốc sư cũng là một trong những hàng tăng sĩ hộ trì triều đại nhà tiền Lê và sau là triều đại nhà Lý và là người có công nuôi dưỡng vua Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) từ khi còn nhỏ.
Các vị vua triều đại nhà Trần đều là những vị uyên thâm Phật Pháp. Sách "Thiền Tông chỉ nam" có ghi lại câu trả lời của Quốc sư Viên Chứng với vua Trần Thái Tông: Ðã làm vua thì không còn có thể theo ý thích của riêng mình, phải lấy ý muốn của dân làm ý mình, phải lấy lòng dân làm lòng mình. Và làm vua vẫn có thể vừa làm nghề trị nước, vừa tu học Phật pháp.
Ðặc biệt khi Vua Trần Nhân Tông sau khi hoàn thành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước vững mạnh trước sự xâm lấn của ngoại bang, Ngài đã nhường ngôi cho con trai, lên núi Yên Tử xuất gia tu học, làm sáng tỏ giáo lý đạo Phật thông qua phát triển tư tưởng Thiền với chủ trương cực lạc hiện tiền, kết hợp nhuần nhuyền giữa tư tưởng giáo lý đạo Phật và truyền thống văn hóa người Việt. Ðó chính là thể hiện ở tính nhập thế của đạo Phật một cách sâu rộng, nhằm phục vụ cuộc sống nhân sinh, xây dựng xã tắc với đức tính khoan dung, từ bi nhân ái của đồng loại.
Với truyền thống hộ quốc an dân, tăng ni, phật tử Phật giáo Việt Nam đã làm được nhiều Phật sự ích đạo lợi đời, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong kháng chiến, nhiều tăng ni, phật tử đã tích cực tăng gia sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội, ủng hộ đất nước khó khăn. Nhiều cơ sở tự viện của Phật giáo trở thành những nơi an toàn bảo vệ cán bộ cách mạng; Nhiều tăng sĩ làm lễ hạ áo cà sa, tòng quân ra trận, trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng. Nhiều vị bị bắt tù đày, nhưng vẫn tỏ rõ tinh thần đại hùng, đại lực và đại từ bi, mang đậm nét của giáo lý đức Phật.
Ðất nước hoàn thành sự nghiệp cách mạng đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, lịch sử Phật giáo cũng bước sang một trang mới. Ðó chính là sự ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại Hội nghị thống nhất tổ chức hệ phái Phật giáo trong cả nước được tổ chức vào tháng 11-1981, tại Thủ đô Hà Nội. Sự nghiệp thống nhất Phật giáo thành công trong phạm vi toàn quốc là đáp lại nguyện vọng chính đáng của hàng triệu tăng ni, phật tử, đã tạo nên một Phật giáo Việt Nam hòa cùng sự phát triển chung của đất nước và hội nhập quốc tế. Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã viết: Mục đích của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là điều hòa hợp nhất của các hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần an lạc cho thế giới. Trong buổi tiếp các đại biểu dự Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam năm 1981, Cố Thủ tướng Phạm Văn Ðồng đã nói: Tôi cho rằng, chúng ta gặp nhau trong tư tưởng, trong tình cảm, trong hành động, trong quá trình làm việc. Bởi lẽ tất cả chúng ta đều vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Bởi lẽ Phật giáo Việt Nam và Chủ nghĩa xã hội gắn chặt với nhau. Tổ quốc ta đang đòi hỏi phải làm việc và xây dựng. Ðó là trách nhiệm của mọi người, trong đó có tăng ni, phật tử. Mong rằng trong công cuộc xây dựng Tổ quốc ta lâu dài, lộng lẫy của mọi người, Phật giáo sẽ cống hiến phần xứng đáng của mình.
Là tôn giáo có truyền thống 2000 năm lịch sử và được tôi luyện trưởng thành cùng với lịch sử đất nước, Phật giáo Việt Nam luôn hòa mình cùng với dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng ni, phật tử đã vận dụng sáng tạo giáo lý từ bi của đạo Phật phục vụ đời sống nhân sinh. Nhiều cơ sở từ thiện xã hội đã được thiết lập tại các cơ sở tự viện như: hệ thống Tuệ Tĩnh đường, chẩn trị y học dân tộc; trường nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật, lớp học tình thương, trung tâm nuôi dưỡng người già cô đơn, giúp đỡ gia đình chính sách khó khăn; trung tâm dạy nghề miễn phí; trung tâm tư vấn và chăm sóc người nhiễm bệnh hiểm nghèo HIV/AIDS... Những việc làm đó đều xuất phát từ giáo lý đức Phật "Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật", góp phần thực hiện thành công mục tiêu chung của quốc gia: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
VÌ vậy, Ðại lễ Phật đản LHQ năm 2008 được tổ chức tại Việt Nam không chỉ mang ý nghĩa tôn giáo tâm linh, trao đổi học thuật, mà còn có ý nghĩa về văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo. Ðây là cơ duyên tốt để tăng ni, phật tử thế giới chia sẻ kinh nghiệm hoằng pháp độ sinh thúc đẩy bảo vệ hòa bình. Ðồng thời, thông qua các hoạt động nghi lễ, tham quan, biểu diễn văn hóa-nghệ thuật, cộng đồng Phật giáo quốc tế hiểu rõ hơn về đất nước, con người và Phật giáo Việt Nam xưa và nay, trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong thư gửi Hội Phật tử Việt Nam năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Ðức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma...", ..."Tôn chỉ, mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm...".
Hòa thượng Thích Thanh Tứ
Phó Chủ tịch thường trực
Hội đồng Trị sự T.Ư Giáo hội Phật giáo Việt Nam