Nuôi trồng thủy sản ở Trà Vinh

Thu hoạch tôm sú ở huyện Cầu Ngang.
Thu hoạch tôm sú ở huyện Cầu Ngang.

Hiện tỉnh Trà Vinh sử dụng 29.187 ha đất để nuôi trồng thủy sản, chiếm 12,7% diện tích tự nhiên và bằng 15,5% diện tích đất nông nghiệp. Trong đó, đất nuôi trồng thủy sản nước lợ, mặn là 28.036,93 ha (chiếm 96% đất nuôi trồng thủy sản); phân bố chủ yếu tại 17 xã thuộc bốn huyện: Cầu Ngang, Trà Cú, Duyên Hải và Châu Thành. Ðất nuôi trồng thủy sản nước ngọt 1.151 ha, phân bố ở tất cả các xã còn lại.

Trước đây, việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ  nuôi trồng thủy sản chưa được chú ý đúng mức. Nhiều vùng đất có sẵn lợi thế để nuôi trồng thủy sản lại được đầu tư ngọt hóa để trồng lúa. Trong khi giá trị kinh tế mang lại từ nuôi trồng thủy sản luôn cao hơn nhiều lần so với trồng lúa trên cùng diện tích.

Thấy được lợi thế đó, những năm qua người dân đẩy nhanh nghề nuôi tôm sú ở vùng ngập mặn; nuôi tôm càng xanh, nuôi cá với mô hình tôm + lúa, cá + lúa ở vùng nước lợ, nước ngọt và nuôi cua, nghêu, nuôi tôm thử nghiệm trên ruộng muối. Sản lượng nuôi thủy sản tăng nhanh qua từng năm, với tỷ trọng không ngừng tăng và giữ ổn định đạt gần 21% GDP trong cơ cấu toàn ngành nông nghiệp và chiếm 13,71% GDP của tỉnh.

Trong đó, giá trị sản xuất của nuôi thủy sản chiếm tỷ lệ quyết định (74,5% giá trị sản xuất của ngành thủy sản) và có xu hướng tiếp tục tăng. Năm 2007, tổng sản lượng thủy sản của Trà Vinh đạt 149.000 tấn, trong đó sản lượng do nuôi trồng đạt hơn 84.000 tấn. Trong tổng giá trị sản phẩm do ngành thủy sản mang lại, giá trị do nuôi trồng chiếm đến 81%. Trong hơn 36.597 tấn tôm các loại thu được, sản lượng tôm nuôi chiếm hơn 74%. Ðiều đó cho thấy ở Trà Vinh nghề nuôi trồng thủy sản chiếm vị trí hết sức quan trọng. Ðể ngành thủy sản thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, việc quy hoạch, đầu tư để khai thác tốt những vùng đất có tiềm năng vào nuôi trồng thủy sản là cần  thiết.

Theo nghị quyết của Tỉnh ủy Trà Vinh, chỉ tiêu về sản lượng thủy sản đến năm 2010 của tỉnh là 171.000 tấn. Ðể đạt chỉ tiêu này, nhu cầu sử dụng đất vào mục đích nuôi trồng thủy sản, lên đến 66.200 ha. Trong đó, nuôi trồng nước ngọt là 38.400 ha; nuôi trồng nước mặn, lợ là 27.800 ha. Việc phát triển nhanh nghề nuôi tôm sú đã dẫn đến hệ lụy là đầu tư cơ sở hạ tầng không theo kịp làm cho việc nuôi tôm manh mún và thiếu bền vững. 

Trước tình hình đó, Trà Vinh đã nhanh chóng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ việc chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản cho những vùng đã quy hoạch. Ðã có hơn 10  công trình phục vụ cho nuôi thủy sản được triển khai ở cả ba vùng nước mặn, lợ và ngọt, với tổng dự toán hơn 180 tỷ đồng, trong đó gồm vốn ngân sách và người hưởng lợi đóng góp. Trong số này đã có một số công trình được đầu tư hoàn chỉnh, đang phát huy hiệu quả.

Ðó là Dự án nuôi tôm công nghiệp ở ấp Long Thạnh, xã Long Toàn, huyện Duyên Hải, đến nay đã huy động tổng vốn đầu tư hơn 87 tỷ đồng hoàn chỉnh khu nuôi tôm công nghiệp 200 ha gồm hệ thống bờ bao, cống cấp thoát nước, đường giao thông nội vùng, đường điện phục vụ sản xuất... Hai năm qua, những người nuôi tôm trong khu vực này rất phấn khởi, vì những điều kiện tối thiểu để phục vụ cho nuôi tôm công nghiệp cơ bản đã được đáp ứng; năng suất nuôi ngày một tăng một cách bền vững.

Tại huyện Trà Cú có hai công trình với tổng kinh phí hơn 40 tỷ đồng phục vụ chuyển đổi 80 ha đất ở các ấp Xà Lôn, Lộ Sỏi, Cà Hom, Bến Bạ từ sản xuất lúa sang nuôi thủy sản kết hợp trồng lúa. Từ việc đầu tư xây dựng hệ thống đê bao này, đã giúp sản xuất ở đây giảm được những bất lợi do điều kiện tự nhiên, lúa mất mùa do xâm nhập mặn sớm, tôm cá thất thoát khi triều cường. Cơ cấu sản xuất được chuyển đổi theo hướng nuôi trồng thủy sản kết hợp trồng lúa, đưa thủy sản lên hàng đầu.

Ở vùng nước ngọt của hai xã Tam Ngãi và Thông Hòa, huyện Cầu Kè công trình thủy lợi phục vụ chuyển đổi 25 ha đất chuyên trồng lúa sang nuôi thủy sản kết hợp trồng lúa. Tổng dự toán đầu tư cho công trình này lên hơn 24 tỷ đồng sắp hoàn thành. Công trình này với mục tiêu tận dụng nguồn nước ngọt dồi dào, sẵn có quanh năm để nuôi các loài thủy sản nước ngọt kết hợp trồng lúa, nhằm đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, giảm bớt việc trồng lúa nhiều vụ liên tiếp trong năm, đồng thời tăng thêm thu nhập cho nông dân.

Vùng chuyển đổi 450 ha từ trồng lúa sang nuôi tôm ở xã Mỹ Long Nam huyện Cầu Ngang, tuy nguồn vốn đầu tư chỉ hơn 5 tỷ đồng nhưng đã đào được hai con kênh dài hơn 9 km, xây đúc 6 cống tròn và 6 cầu góp phần nâng cao cuộc sống của hàng nghìn người dân trên vùng đất này. Những hộ nuôi tôm ở đây đã tập hợp vào 9 tổ hợp tác sản xuất để cùng nhau khai thác, sử dụng hiệu quả hơn các công trình.

Kỹ sư Nguyễn Ðức Mậu, Trưởng Phòng nông nghiệp huyện Cầu Ngang cho biết: Ðến nay, huyện đã thực hiện chuyển đổi được 5.765 ha đất từ trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi thủy sản. Hiện nay, trên địa bàn huyện còn nhiều công trình đang triển khai thi công như: Dự án thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản vùng chuyển đổi sản xuất 350 ha ở xã Hiệp Mỹ Ðông với tổng dự toán hơn 18 tỷ đồng; Dự án cải tạo, hoàn thiện cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm 330 ha ở Tầm Vu Lộ xã Hiệp Mỹ Tây hơn 12 tỷ đồng; đang tư vấn khảo sát để chuyển đổi 1.300 ha cánh đồng Trà Côn sang nuôi thủy sản. Theo quy hoạch đến năm 2010, toàn huyện có 13.500 ha trong tổng số 17.500 ha đất trồng lúa ở cả ba vùng nước mặn, lợ và ngọt có thể nuôi trồng các loài thủy sản.

Ngoài những công trình đã và đang đầu tư thi công phục vụ nuôi trồng thủy sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh đang lập danh sách 42 dự án, công trình đề xuất đầu tư xây dựng phục vụ nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2009 - 2010 và tầm nhìn đến 2020, với tổng diện tích 21.000 ha; trong đó có gần 2.500 ha được quy hoạch chuyên nuôi cá da trơn cho chế biến xuất khẩu và hơn 3.200 ha cho việc nuôi các loài tôm, cá nước ngọt kết hợp trồng lúa.

Ðể thực hiện được mục tiêu này, khó khăn lớn nhất vẫn là nguồn vốn. Trong những năm tới, Trà Vinh cần tích cực tranh thủ các nguồn vốn: Trung ương,  địa phương, vốn nước ngoài để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật phục vụ mở rộng mặt nước nuôi thủy sản. Ðồng thời khuyến khích các tổ chức kinh tế đầu tư vào nuôi trồng thủy sản; vận động nhân dân tiết kiệm tích lũy vốn để mở rộng dần diện tích nuôi.

Trong điều kiện nguồn vốn hạn chế, trước mắt cần tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên đầu tư các vùng có tiềm năng thế mạnh, tạo ra giá trị kinh tế cao, phục vụ chế biến xuất khẩu; lấy xuất khẩu và tiêu thụ làm động lực phát triển, trong đó con tôm là sản phẩm chủ lực. Cùng với đầu tư phát triển nuôi trồng, tỉnh cần quan tâm phát triển ngành chế biến thủy - hải sản đủ năng lực chế biến hết sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản, tăng giá trị sản xuất hàng hóa.

Bài và ảnh: Ðặng Văn Bường

Có thể bạn quan tâm