Nuôi thủy sản ở bán đảo Cà Mau

Hiệu quả từ một chương trình đầu tư

Bán đảo Cà Mau (BÐCM) có diện tích tự nhiên gần một triệu ha, gồm toàn bộ địa bàn hai tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và các huyện An Biên, An Minh của tỉnh Kiên Giang. Nằm giáp Biển Ðông và Biển Tây, với chiều dài bờ biển hơn 307 km, BÐCM có hàng chục cửa sông lớn ăn sâu vào nội địa, tạo những lợi thế để phát triển kinh tế nông-ngư-lâm nghiệp. Với nhiều vùng sinh thái đa dạng, mặn-ngọt-lợ đan xen, cho nên ở đây đã hình thành, phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện với nhiều loại cây con, nhất là nuôi trồng và khai thác thủy sản.

Ðể khai thác thế mạnh của vùng kinh tế này, từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay, Chính phủ đã cho triển khai nhiều dự án, công trình về thủy lợi, giao thông, điện... với nguồn vốn đầu tư rất lớn, với quyết tâm và mục tiêu là dẫn ngọt từ sông Hậu về tưới tiêu, tăng mùa chuyển vụ, tăng sản lượng cây trồng, vật nuôi trong toàn vùng. Tiêu biểu trong những dự án này là chương trình thủy lợi dẫn ngọt từ sông Hậu về cho vùng Quản Lộ Phụng Hiệp. Ðể đưa nước ngọt về tắm mát, chảy sâu vào nội đồng, với khoảng cách gần 200 km từ sông Hậu về, trong đó điểm xa nhất là Cà Mau, là một việc làm gian nan, phức tạp bởi tính đặc thù của toàn vùng là địa hình kênh rạch cắt khúc, chế độ thủy văn bán nhật triều, đất thường xuyên bị xoáy lở, nửa mặn vào mùa khô, nửa ngọt vào mùa mưa... Với đặc điểm này, toàn bộ hệ thống thủy lợi của vùng BÐCM trong thời gian qua được đầu tư lớn, xây kiên cố vững chắc để trữ nước. Từ năm 1990 đến nay, nhiều công trình thủy lợi gồm kênh, cống cấp 1, 2 đã hình thành và hơn 8.000 km kênh thủy lợi nội đồng được  đưa vào khai thác, khép kín cho toàn bộ tuyến quốc lộ 1A. Ðáng kể nhất là hệ thống cống đập âu thuyền Tắc Thủ, với vốn đầu tư gần 80 tỷ đồng, nằm trên địa bàn tỉnh Cà Mau, được đưa vào sử dụng cuối năm 2005. Công trình đầu mối này có khả năng  ngăn mặn, giữ và tiêu thoát nước trực tiếp cho phần lớn diện tích các huyện U Minh, Thới Bình của Cà Mau và một phần diện tích của các huyện Giá Rai, Phước Long và Hồng Dân của tỉnh Bạc Liêu. Các công trình thủy lợi đã phát huy hiệu quả; là những cống đầu mối hữu ích giúp địa phương chủ động đóng mở cống điều tiết mặn, ngọt phục vụ chuyển đổi sản xuất cây trồng, vật nuôi, nhất là cho nuôi tôm. Ngoài ra, ngành nông nghiệp và nhân dân trong vùng đã tích cực làm thủy lợi: đắp đê, đào kênh, xây cống... để đáp ứng yêu cầu thâm canh, tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Việc dẫn ngọt từ sông Hậu đã về "tắm mát", chảy sâu vào đồng đất 70 nghìn ha của Bạc Liêu, 50 nghìn ha của Cà Mau và 66 nghìn ha của Kiên Giang. Hệ thống thủy lợi này cũng tạo điều kiện giúp nông dân nâng vòng quay của đất lên gần hai lần, diện tích sản xuất lúa 2-3 vụ tăng hơn 200 nghìn ha; tổng sản lượng lúa tăng gần một triệu tấn. Cùng với chương trình ngọt hóa, các địa phương trong vùng  tích cực triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng về điện, đường, trường, trạm, nước sạch, vệ sinh môi trường, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo. Ðến nay, đường xe hai bánh đã đến  100% số xã, ấp trong toàn vùng, trong đó 60% số xã có đường ô-tô. Riêng điện lưới quốc gia đã về đến tất cả các xã, cụm dân cư, khu kinh tế kỹ thuật với 80-85% số hộ dân nông thôn sử dụng điện; bộ mặt nông thôn khởi sắc.

Hướng đến nghề nuôi trồng thủy sản bền vững

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bạc Liêu Lương Ngọc Lân cho rằng: Những năm gần đây, toàn bộ vùng ngọt hóa BÐCM đã có sự thay đổi lớn. Ðó là việc mặn hay ngọt, nuôi tôm hay trồng lúa? Từ thực tiễn sản xuất, với cách nghĩ và cách làm của mình, nông dân ở đây cho rằng, bài toán hiệu quả nhất vẫn là nuôi tôm. Sau năm năm chuyển đổi sản xuất, diện tích nuôi trồng thủy sản của Bạc Liêu lên đến hơn 100 nghìn ha.  Doanh thu nuôi trồng thủy sản bình quân đạt 54 triệu đồng/ha/năm. Chuyển đổi sản xuất đã góp phần làm tăng trưởng GDP trung bình 14,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí cũ giảm xuống còn 5%, trung bình mỗi năm giảm 4.500 hộ nghèo. Trong năm năm vừa qua, Bạc Liêu  đã đầu tư hơn 4.200 tỷ đồng xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản và trồng lúa; trong đó vốn ngân sách nhà nước 1.000 tỷ đồng, nhân dân và các thành phần kinh tế 3.200 tỷ đồng. Tuy nhiên, bài toán về thủy lợi, nhất là nguồn nước nuôi trồng thủy sản trong vùng ngọt hóa BÐCM chưa phải đã có đáp số đầy đủ. Gần đây, Bạc Liêu tiếp tục chỉ đạo nhằm tháo gỡ ở những vùng khó khăn về nguồn nước, con giống, kỹ thuật, vốn... Vấn đề môi trường bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng như thủy lợi, nhất là vùng mới chuyển đổi và cộng đồng quản lý của người nuôi, được quan tâm nhiều hơn. Tỉnh cũng xác định, triển khai vùng nuôi an toàn, không có dư lượng thuốc kháng sinh để bảo đảm khả năng xuất khẩu. Ðến nay, Bạc Liêu đã có hơn 40 nghìn ha gieo trồng lúa chất lượng cao, gần 40 ha nuôi thủy sản kết hợp và tiếp tục mở rộng diện tích nuôi đa con lên 60 nghìn ha vào cuối năm 2006; phấn đấu trở thành địa phương đi đầu ở vùng BÐCM trong việc phát triển mô hình sản xuất đa canh, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.

Cà Mau là địa phương bắt đầu nghề nuôi tôm cách đây hơn 20 năm, nhưng đến năm 1999 thì mới trở thành vấn đề nóng bỏng, với nhiều vụ nông dân tự tiện phá bờ, bửa đập để đưa nước mặn vào đất lúa nuôi tôm. Chắt lọc, đúc kết từ thực tiễn sản xuất, đồng thời để đáp ứng nguyện vọng làm giàu của nông dân, năm 2001, Cà Mau chủ trương chuyển đổi sản xuất từ độc canh cây lúa kém hiệu quả sang nuôi tôm trên diện rộng. Ðến nay, toàn tỉnh có khoảng 230 nghìn hộ nuôi tôm trên diện tích gần 250 nghìn ha. Năm 2005, sản lượng tôm nuôi của tỉnh đạt gần 100 nghìn tấn; kim ngạch xuất khẩu 510 triệu USD. Tuy nhiên, năng suất tôm nuôi là quá thấp, chưa tương xứng tiềm năng đất đai và diện tích ngày càng tăng lên.

Giám đốc Sở Thủy sản Cà Mau Phạm Văn Ðức lo lắng: Ðây là điều đáng được suy  nghĩ và cần tìm nguyên nhân, đề ra giải pháp tốt hơn cho con tôm trên các vùng chuyển dịch. Kinh nghiệm mà Cà Mau rút ra trong quá trình chuyển đổi lâu nay là khắc phục sự độc canh con tôm; chỉ đạo nông dân nuôi đa con trên cùng diện tích. Không dừng lại ở con số 20-30 nghìn ha hiện nay, Cà Mau phấn đấu nâng diện tích nuôi đa con lên từ 80 đến 100 nghìn ha trong thời gian tới ở tất cả các vùng sinh thái đa dạng của tỉnh. Ðể đạt được mục tiêu, tỉnh tiếp tục triển khai đồng bộ, từ khâu khảo sát, quy hoạch đến bảo đảm thực hiện nghiêm túc lộ trình và các nội dung, mục tiêu quy hoạch; từ việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cấp thoát nước, sản xuất con giống đạt chuẩn, đào tạo hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân trong tổ chức nuôi trồng, phòng, chống dịch bệnh đến việc xác định và xây dựng các mô hình sản xuất mẫu cho nông dân...  Chúng tôi đến tham quan mô hình sản xuất đa con của anh Nguyễn Văn Hận ở xã Tân Thành, TP Cà Mau. Với 4 ha đất, những năm đầu chuyển đổi sang nuôi độc canh con tôm, thu hoạch rất kém. Những năm gần đây, anh Hận cải tạo lại thành hai khu, một sinh thái nước mặn-lợ chuyên nuôi tôm, cá, cua kết hợp; phần còn lại đắp bờ bao, nuôi cá chình, bống tượng, trồng lúa, trên bờ trồng rau màu và cây ăn quả. Trừ các chi phí sản xuất, anh Hận còn lãi gần 250 triệu đồng/năm. Kinh nghiệm của anh Hận là, vùng mặn-ngọt của BÐCM rất thích hợp nuôi trồng đa con; phải giữ cả hai bên để có thu hoạch đều, không lo việc mất mùa; bên mặn cho thu hoạch tôm; bên ngọt thu hoạch lúa, rau màu... Ðẩy mạnh sản xuất đa con không còn là chuyện riêng của gia đình anh Hận, giờ đây trở thành việc của đông đảo nông dân xã Tân Thành.

Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản trong toàn vùng BÐCM hiện nay là hơn 430 nghìn ha; trong đó chủ yếu là nuôi sinh thái, nuôi quảng canh cải tiến, nuôi kết hợp tôm-lúa-cá... với số hộ sản xuất đạt hiệu quả cũng tăng rõ rệt.  Tuy nhiên, nghề nuôi tôm ở đây còn thiếu vững chắc và không ổn định; tình trạng tôm chết, mất mùa diễn ra thường xuyên. Trong khi đó, ngành chủ quản và nhiều địa phương còn thụ động, chậm triển khai quy hoạch tổng thể cho toàn vùng, trong đó vấn đề chuyển dịch nuôi trồng thủy sản theo hệ sinh thái mặn-ngọt-lợ đan xen chưa được xác lập một cách hợp lý. Ngoài ra, hệ thống dịch vụ cung ứng tôm giống, thức ăn, chuyển giao kỹ thuật, chế biến, kiểm soát môi trường, cũng như cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi thủy sản không theo kịp. 

ÐẶC điểm của vùng BÐCM là nước mặn-ngọt-lợ đan xen quanh năm, có thể sản xuất, gieo trồng  nhiều loại cây con, nhất là nuôi tôm. Ðể khai thác lợi thế, tiềm năng trong vùng, Chính phủ đã giao cho một số bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủy sản... phối hợp các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang điều chỉnh quy hoạch gắn với chuyển dịch cơ cấu sản xuất phù hợp, sát thực tế hơn. Theo đó, diện tích nuôi trồng thủy sản toàn vùng từ nay đến năm 2010  là ổn định khoảng 400 nghìn ha với các mô hình chuyên tôm, nuôi đa con, nuôi kết hợp tôm-lúa-tôm-rừng cả trong điều kiện mặn, ngọt, lợ. Về sản xuất lương thực, tạo điều kiện giúp nông dân hướng tới làm lúa an toàn, chất lượng cao và trồng cây lâu năm có giá trị kinh tế.  Dự kiến, toàn bộ vốn đầu tư cho việc thực hiện dự án điều chỉnh quy hoạch BÐCM là hàng nghìn tỷ đồng, gồm các hạng mục: hệ thống thủy lợi linh hoạt chủ động mặn-ngọt; trạm trại sản xuất con giống, bảo quản chế biến sản phẩm, chuyển giao khoa học-kỹ thuật, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa cho nông dân... Hiện nay,  các địa phương trong vùng BÐCM tiếp tục điều chỉnh, triển khai quy hoạch; nông dân tích cực đầu tư, chuyển đổi sản xuất. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc điều chỉnh quy hoạch, chuyển đổi sản xuất ở BÐCM phải được các nhà khoa học và đông đảo người dân đồng tình. Phải biết khai thác, biến lợi thế đa dạng sinh thái thành lợi thế kinh tế, trong đó lợi thế số một ở đây là nuôi tôm và nuôi các loài thủy sản có giá trị khác. Các địa phương cũng cần có bước đi và giải pháp cụ thể; không chuyển dịch theo kiểu tự phát tràn lan như đã qua; không phải chỗ nào cũng đưa nước mặn vào sâu nội đồng làm phá vỡ, ảnh hưởng đến môi trường sinh thái toàn vùng.

Có thể bạn quan tâm