Chiều 18/12, Báo Nhân Dân khai mạc Triển lãm tương tác “Những trận đánh nổi tiếng, những vị tướng tài danh”, ca ngợi những chiến công hiển hách và tôn vinh những vị tướng tài danh của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng thông qua những bản đồ, hình ảnh, âm thanh, tư liệu,… được trình bày trực quan, khoa học, ấn tượng.
Chiều 18/12, Báo Nhân Dân đã tổ chức lễ khai mạc Triển lãm tương tác “Những trận đánh nổi tiếng, những vị tướng tài danh”. Với việc quét mã QR được tích hợp trên từng bức tranh và sơ đồ trận đánh, người xem sẽ được trải nghiệm thêm thông tin, hình ảnh trực quan về các trận chiến nổi tiếng cùng dấu ấn của những vị tướng tài danh trong lịch sử dân tộc.
Cách đây 34 năm, vào ngày 14/3/1988, trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền Tổ quốc tại các bãi đá Gạc Ma, Cô Lin và Len Ðao, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, mặc dù lực lượng, phương tiện, vũ khí của ta lúc đó còn hạn chế, song những người lính biển ngày ấy đã chiến đấu dũng cảm, quyết tử đến cùng. Trong số đó, 64 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã anh dũng hy sinh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh thực hiện nhiệm vụ dân tộc, Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp cách mạng các nước, như Trung Quốc, Lào, Campuchia, Cuba trước đây và hiện nay đang tham gia tích cực, hiệu quả vào sứ mệnh Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.
Sau khi lên nắm quyền ở Campuchia (tháng 4/1975), tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary đã thi hành chế độ độc tài, phát-xít mang tính diệt chủng đối với nhân dân Campuchia và gây chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Nhiều năm đã trôi qua, song chiến công giải phóng Trường Sa của Quân chủng Hải quân vẫn còn hết sức tươi mới, minh chứng cho một "quyết định lịch sử, khoảnh khắc lịch sử", vẻ vang trong truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần tô thắm chiến công của Quân đội và Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.
Ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị "vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ". Kiến nghị này đã được ghi trong Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25/3/1975.
Ðây là quyết tâm chiến lược rất sáng suốt và chính xác của Ðảng, mà tập trung là Bộ Chính trị và Quân ủy T.Ư, chứng tỏ Ðảng ta hết sức nhạy bén, sáng suốt, chủ động điều khiển cuộc chiến tranh kết thúc đúng với ý định của mình.
Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
40 năm sau nhìn lại Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ta thấy đây là chiến dịch cuối cùng của Cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta. Nó là một điển hình, là nét đặc sắc nhất của nghệ thuật tác chiến hiệp đồng quân binh chủng trong chiến dịch tiến công quy mô lớn, với đặc trưng “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, giành thắng lợi hoàn toàn, triệt để, trong thời gian ngắn.
Kỷ niệm 40 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, từ số báo này, Báo Nhân Dân mở chuyên mục "40 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước", nhằm ôn lại giai đoạn lịch sử đấu tranh gian khổ, hào hùng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở hai miền nam, bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, tiếp tục khẳng định vị trí, tầm vóc vĩ đại, giá trị lịch sử to lớn của Chiến thắng 30-4-1975, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Tiến công giải phóng Huế-Đà Nẵng là một trong ba đòn tiến công chiến lược trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân khu 1 - Quân đoàn 1 của địch; giải phóng các tỉnh thuộc quyền kiểm soát của Quân khu 1 ngụy. Thắng lợi này đã góp phần đánh bại âm mưu co cụm chiến lược của địch; tạo đà trực tiếp cho Chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.
Tây Nguyên có vị trí địa chiến lược đặc biệt quan trọng, nên Mỹ-ngụy đã biến nơi đây thành một căn cứ quân sự chiến lược lớn, hòng đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, ngăn chặn sự chi viện của ta từ miền bắc vào và từ rừng núi xuống đồng bằng Khu V. Lực lượng địch ở Tây Nguyên có Sư đoàn bộ binh 23, bảy tiểu đoàn biệt động quân, 36 tiểu đoàn bảo an, bốn thiết đoàn, 230 khẩu pháo, 150 máy bay thuộc Quân đoàn 2- Quân khu 2. Nhìn chung, địch bố trí lực lượng mạnh ở khu vực phía bắc Tây Nguyên, còn khu vực phía nam được coi như hậu phương, nên chúng bố trí lực lượng mỏng hơn.
Cách đây tròn 40 năm, vào tháng 12/1972, quân và dân ta, mà trực tiếp là quân và dân Hà Nội, Bộ đội Phòng không-Không quân đã làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Ðiện Biên Phủ trên không", đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không, chủ yếu bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ.
Đế quốc Mỹ liên tiếp thực hiện hai cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc mà đỉnh cao là cuộc tập kích đường không chiến lược cuối tháng 12/9172 hòng “đưa miền bắc về thời kỳ đồ đá”. Trong 12 ngày đêm, giặc Mỹ muốn biến Hà Nội thành bãi chiến trường của cuộc đọ sức cuối cùng mà chúng tưởng nắm chắc phần thắng trong tay. Nhưng, tất cả mọi tính toán điên cuồng đó đều bị đảo lộn hoàn toàn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 21 năm gian khổ của dân tộc ta, năm 1972 có vị trí đặc biệt quan trọng, tạo ra bước ngoặt lớn của chiến tranh với những thắng lợi có tính quyết định trên cả hai miền nam-bắc, cả đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao.
Nhằm giành thế chủ động trên chiến trường, tạo thế có lợi trong đàm phán tại Paris, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền nam, lấy Trị-Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu.
Thắng lợi trên Mặt trận Đường 9-Nam Lào đã đánh bại quân chủ lực ngụy có sự yểm trợ của chủ lực Mỹ, đánh bại cố gắng cao nhất của đế quốc Mỹ trong thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, đánh dấu bước thất bại nghiêm trọng của chiến lược này.
40 năm đã trôi qua, sự kiện lịch sử Tết Mậu Thân 1968 vẫn còn những nhận xét, đánh giá khác biệt trong giới sử học, mà một trong những điều nổi lên là đi sâu tìm hiểu kỹ hơn nữa quá trình hình thành ý đồ chiến lược và mục đích đích thực của cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam trong việc mở cuộc tiến công lịch sử này - cuộc tiến công táo bạo nhất: đồng loạt đánh vào toàn bộ các đô thị trên toàn miền nam!
Tại cuộc Hội thảo khoa học "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968" do Bộ Quốc phòng và Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế tổ chức ngày 10-1 tại TP Huế, đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành T.Ư Ðảng, có bài tham luận. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc nội dung bài tham luận.
Cuối năm 1967, cục diện chiến tranh có sự chuyển biến mau lẹ. Cách mạng Việt Nam đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi; trong khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn đang ở thế thua, thế bị động và gặp nhiều khó khăn.
Chiến thắng Ðường 9-Khe Sanh xuân hè 1968 của quân và dân ta đã tạc vào lịch sử hiện đại một nét son chói ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Từ ngày 22/2 đến 15/4/1967, Quân giải phóng miền nam Việt Nam mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân “tìm diệt” quy mô lớn của Mỹ và quân đội Sài Gòn vào chiến khu Dương Minh Châu, thuộc địa bàn phía bắc tỉnh Tây Ninh.
Chiến dịch Bình Giã (2/12/1964-3/1/1965) là chiến dịch tiến công đầu tiên của Quân giải phóng miền nam trên chiến trường miền Đông Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là chiến dịch về quy mô chỉ tương đương cấp sư đoàn, nhưng có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng, góp phần làm thất bại về cơ bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy, mở đầu thời kỳ mới của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền nam Việt Nam.
Cho đến những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20, đế quốc Mỹ đã có cả một quá trình dài can dự vào vấn đề Ðông Dương và Việt Nam. Chỉ tính từ năm 1954 đến năm 1960, riêng đối với miền nam Việt Nam, trung bình mỗi ngày, Mỹ chi vào đây gần một triệu USD viện trợ cho chính quyền Ngô Ðình Diệm, do Mỹ dựng lên và nuôi dưỡng, nhằm áp đặt ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ tại đất này.
Thắng lợi to lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã giáng một đòn chí mạng vào ý chí xâm lược, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp, buộc phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Giơnevơ bàn về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.
Trận Điện Biên Phủ xứng đáng là một trận đánh tiêu biểu, nổi tiếng lịch sử quân sự thế giới của một quân đội nhỏ chiến thắng một quân đội lớn, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, đánh bại sức mạnh sắt thép và đô-la của can thiệp Mỹ. Như một Xương Giang-Bạch Đằng-Chi Lăng-Đống Đa, Điện Biên Phủ đã ghi thêm một trang sử vàng hào hùng và oanh liệt của dân tộc ta.
Sau chiến thắng Biên Giới thu đông 1950, ta mở tiếp ba chiến dịch ở vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ. Tuy thu được một số kết quả, nhưng nhìn chung, cả ba chiến dịch này đã không đạt được mục tiêu chiến lược đề ra ban đầu, mà nguyên nhân là vấn đề chọn hướng tiến công.
Thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, với đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định đánh bại hoàn toàn kế hoạch Nava, đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố hợp thành, trong đó có tác chiến phòng không.