ND - Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 14-11-2008, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 28-11-2008, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2009. Luật này có chín chương với 183 điều.
Công tác thi hành án dân sự giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Toà án và các cơ quan có thẩm quyền khác, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Từ năm 1989 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành ba pháp lệnh và các văn bản có liên quan đến thi hành án dân sự, đặc biệt, trong kỳ họp thứ tư vừa qua, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự nhằm tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Ðảng về công tác thi hành án dân sự, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án, củng cố, kiện toàn, xác định rõ địa vị pháp lý của cơ quan thi hành án, phù hợp với yêu cầu cấp thiết mà thực tiễn đặt ra, nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong công tác thi hành án dân sự.
Luật Thi hành án dân sự về cơ bản kế thừa các quy định của Pháp lệnh năm 2004 và các văn bản hướng dẫn có liên quan đã được thực tiễn kiểm nghiệm và pháp điển hóa thành quy định của Luật. Ðồng thời, để phát huy hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, hạn chế tối đa tình trạng án tồn đọng kéo dài, bên cạnh việc sửa đổi một số quy định hiện hành, Luật Thi hành án dân sự bổ sung rất nhiều quy định mới, trong đó có một số vấn đề quan trọng dưới đây:
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, cho nên Luật phân định rõ cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự trong hệ thống tổ chức, tạo cơ sở cho Chính phủ quy định cụ thể mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự.
Ðể khắc phục những vướng mắc trong việc tuyển dụng, bố trí sử dụng, điều động, luân chuyển chấp hành viên, Luật Thi hành án dân sự quy định Chấp hành viên có ba ngạch gồm: Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp, đồng thời quy định việc bổ nhiệm chấp hành viên phải thông qua thi tuyển và bỏ quy định hiện hành về việc bổ nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ.
Về thời hiệu yêu cầu thi hành án, Pháp lệnh năm 2004 quy định là ba năm. Thực tiễn thi hành án dân sự thời gian qua cho thấy, quy định thời hiệu này là ngắn, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Vì vậy, Luật Thi hành án dân sự đã quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là năm năm.
Về điều kiện xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định người phải thi hành án phải có đơn xin miễn, giảm thi hành án; đồng thời quy định điều kiện xét miễn giảm thi hành án theo tiêu chí điều kiện thi hành án, thời gian đã tổ chức thi hành và tính chất của loại việc thi hành án. Thực tiễn cho thấy, những quy định nói trên chưa hoàn toàn phù hợp, vì vậy, Luật Thi hành án dân sự đã quy định theo hướng phân biệt rõ điều kiện để miễn và điều kiện để giảm thi hành án. Nhằm khuyến khích đương sự tích cực chấp hành án, bảo đảm công bằng trong việc xét miễn, giảm thi hành án, Luật cũng quy định việc miễn, giảm thi hành án căn cứ vào điều kiện thi hành án, thời gian đã tổ chức thi hành án, khoản đã thi hành được và mức nghĩa vụ còn phải thi hành.
Các biện pháp bảo đảm thi hành án, cũng có điểm mới là để ngăn chặn tình trạng người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án, Luật quy định về thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án.
Luật cũng đã quy định về cưỡng chế đối với quyền sở hữu trí tuệ, giấy tờ có giá của người phải thi hành án và bổ sung biện pháp cưỡng chế khai thác đối với tài sản để thi hành án. Ðồng thời quy định chi tiết, chặt chẽ hơn đối với thủ tục áp dụng từng biện pháp cưỡng chế thi hành án cụ thể.
Pháp luật hiện hành quy định việc định giá tài sản về thi hành án phải thông qua Hội đồng định giá do Chấp hành viên làm Chủ tịch là không phù hợp. Vì vậy, Luật Thi hành án dân sự đã đổi mới cơ bản cơ chế xử lý tài sản để bảo đảm thi hành án theo hướng chuyên nghiệp hóa việc định giá tài sản kê biên. Theo đó, việc định giá, định giá lại và bán đấu giá chủ yếu do tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá thực hiện. Mặt khác, việc định giá lại chỉ được thực hiện trong trường hợp có vi phạm về việc định giá và khi đương sự có yêu cầu định giá lại.
Ðể khắc phục tình trạng thiếu hiệu quả của việc thi hành án lao động trong những năm qua, Luật Thi hành án dân sự đã dành một điều quy định về thủ tục thi hành quyết định của Tòa án về việc buộc nhận người lao động trở lại làm việc, trong đó quy định các biện pháp cụ thể, thủ tục chặt chẽ theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong trường hợp người sử dụng lao động chậm trễ trong việc thi hành án hoặc do điều kiện khách quan không thể bố trí được công việc cho người lao động theo đúng nội dung của bản án, quyết định đã tuyên.
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 chưa có quy định cụ thể về thủ tục thi hành án đối với một số loại bản án, quyết định dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án. Khắc phục tình trạng này, Luật Thi hành án dân sự đã dành một chương để quy định thủ tục thi hành án đối với một số trường hợp cụ thể như thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự, trong đó có quy định về việc trại giam, trại tạm giam thu án phí, tiền phạt và các khoản thu khác đối với người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù; thủ tục thi hành quyết định khẩn cấp tạm thời; biện pháp xử lý trong trường hợp bản án đã thi hành xong, nhưng bị hủy do quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án và thủ tục thi hành bản án về phá sản.
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 chỉ mới dành một điều quy định chung về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án dân sự. Chính vì vậy, trong quá trình thi hành án, có sự lúng túng về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự; sự phối hợp giữa Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức liên quan chưa được kịp thời, đồng bộ, có việc chưa nghiêm. Khắc phục nhược điểm này, Luật Thi hành án dân sự đã dành hẳn một chương để quy định về những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong thi hành án của các cơ quan có thẩm quyền quản lý công tác thi hành án dân sự; của các cơ quan có trách nhiệm trong việc phối hợp thi hành án dân sự và của các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
Cùng với việc thông qua Luật Thi hành án dân sự, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự. Ðây là văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng nhằm triển khai có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự, đồng thời tạo cơ sở để Chính phủ quy định, tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phương và một số nội dung chuyển tiếp cần thiết, liên quan đến hiệu lực và hiệu quả thi hành Luật Thi hành án dân sự trong thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý để triển khai chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự. Theo đó, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 1-7-2012. Trên cơ sở kết quả thí điểm, Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Nghị quyết quy định về việc miễn thi hành án theo thủ tục rút gọn đối với khoản nghĩa vụ không quá 500.000 đồng mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá năm năm, tính đến thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành nhưng người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án.
Quy định trách nhiệm của Chính phủ trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp Ủy ban T.ƯMTTQ Việt Nam và các thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật Thi hành án dân sự trong cán bộ, công chức và nhân dân nhằm góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Luật Thi hành án dân sự trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, của cơ quan, tổ chức.
Vũ Hoàng Long