Nhiều rủi ro khi buôn bán tiểu ngạch qua biên giới Lạng Sơn

NDO -

NDĐT - Những năm qua, nhiều doanh nghiệp thường thực hiện việc mua bán hàng hóa tự do, không có hợp đồng ngoại thương (HĐNT), dẫn đến tiềm ẩn những rủi ro cho doanh nghiệp, trong quá trình xuất khẩu hàng hóa nông sản qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

Lãnh đạo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng tỉnh Lạng Sơn kiểm tra hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu Tân Thanh (Văn Lãng).
Lãnh đạo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng tỉnh Lạng Sơn kiểm tra hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu Tân Thanh (Văn Lãng).

Mua bán dựa trên lòng tin...

Lạng Sơn là tỉnh giáp biên, có 12 cửa khẩu, trong đó có hai cửa khẩu quốc tế, một cửa khẩu chính và chín cửa khẩu phụ; là điểm đầu mối quan trọng trong tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng (Việt Nam) nối Trung Quốc với Việt Nam và các nước ASEAN. Do có vị trí đặc biệt này, những năm qua, tỉnh Lạng Sơn luôn tích cực, chủ động trong công tác chỉ đạo điều hành, triển khai các cơ chế chính sách, điều hành hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa tại các cửa khẩu một cách linh hoạt; tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng nhất để thu hút các doanh nghiệp đến Lạng Sơn đầu tư sản xuất, kinh doanh, XNK hàng hóa thông qua các cửa khẩu của Lạng Sơn và Quảng Tây (Trung Quốc). Các cơ quan chức năng của tỉnh đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; phân luồng, điều tiết, bố trí, sắp xếp hợp lý các xe chở hàng xuất khẩu tại các bến bãi trong cửa khẩu và trên các tuyến đường để tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa XNK.

Hàng năm có hơn 3.000 doanh nghiệp cả nước thường xuyên hoạt động XNK hàng hóa qua các cửa khẩu của tỉnh, lưu lượng xe chở hàng xuất nhập khẩu khoảng 1.500 xe/ngày; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua Lạng Sơn những năm gần đây đều đạt mức tăng trưởng khá, bình quân một năm kim ngạch XNK hàng hóa qua địa bàn đạt gần 5 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,5 tỷ USD chủ yếu là hàng hóa hoa quả, nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Hàng nông sản được xuất qua cửa khẩu Tân Thanh, Cốc Nam (Văn Lãng); cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Đồng Đăng (Cao Lộc)... chiếm hơn 80%, một số mặt hàng chủ lực có kim ngạch lớn như: thanh long, dưa hấu, xoài, mít, nhãn, vải thiều… Cụ thể, riêng năm 2019, tổng kim ngạch XNK đạt gần 4,8 tỷ đồng, trong đó kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản khoảng 2,4 tỷ USD, chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu nông sản, hoa quả chiếm tỷ trọng lớn nhưng nhiều năm qua hoạt động giao thương chủ yếu diễn ra bằng loại hình giao dịch tự do, mua bán trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa các đối tác của Việt Nam và Trung Quốc (mua bán trao đổi hàng hóa cư dân biên giới theo loại hình tiểu ngạch), chỉ có ít doanh nghiệp, tư thương ký kết Hợp đồng ngoại thương (HĐNT). Việc mua bán hàng hóa tự do, không có HĐNT, đã dẫn đến nhiều rủi ro, tiềm ẩn thiệt hại cho doanh nghiệp, tư thương trong quá trình xuất khẩu hàng nông sản qua biên giới, đặc biệt là đối với người bán.

Thực tế cho thấy, do mua bán tiểu ngạch nên nhiều doanh nghiệp, tư thương Việt Nam đã gặp rủi ro trong giao dịch mua bán trao đổi hàng hóa như: rủi ro trong thanh toán, chậm giao nhận hàng, bị ép giá sản phẩm; bị trừ tiền, trả lại hàng do mẫu mã, chất lượng không bảo đảm, không đáp ứng đúng yêu cầu…. Trong số các doanh nghiệp, tư thương XNK nông sản, trái cây thì có tới 90% doanh nghiệp, tư thương có thói quen giao dịch tự do "thuận mua, vừa bán", tại chợ biên giới mà không thực hiện ký kết HĐNT với đối tác Trung Quốc.

Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan Tân Thanh Hoàng Thị Thiều Hoa cho biết: Cửa khẩu Tân Thanh là cửa khẩu có số lượng xuất khẩu hàng nông sản lớn nhất của tỉnh. Cửa khẩu thường xuyên có gần 300 doanh nghiệp, tư thương XNK hàng nông sản, trái cây mang sang chợ biên giới Pò Chài, Bằng Tường, Quảng Tây (Trung Quốc), bán tự do, hoặc có thỏa thuận đặt và cung cấp hàng bằng miệng chứ không ký kết HĐNT với bạn hàng. Từ đầu năm 2020 đến nay, Chi cục Hải quan Tân Thanh đã làm thủ tục thông quan cho gần 2.500 tờ khai xuất khẩu nông sản, trái cây với kim ngạch đạt hơn 80 triệu USD... bằng loại hình xuất biên giới, không có HĐNT...

Bà Nguyễn Ngọc Hoa, xã Hoàng Đồng, thành phố Lạng Sơn chia sẻ: Mỗi năm, tôi xuất khẩu khoảng 4.000 tấn nông sản, hoa quả sang Trung Quốc. Việc mua bán hàng hóa chủ yếu hai bên thỏa thuận, đặt, cung ứng và trao trả hàng tại chợ biên giới. Có nhiều thời điểm, cung vượt quá cầu, xe hàng bị ùn ứ nhiều làm cho mẫu mã, chất lượng giảm thì tư thương Trung Quốc thường ép giá, trả hàng hoặc trừ tiền từ 10 đến 20 triệu đồng/xe. Do không ký kết hợp đồng mua bán nên chúng tôi không biết kêu ai và không có cơ sở để ràng buộc bên mua.

Phó Chi cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, ông Vi Công Tường khẳng định: Thể hiện rõ nhất là thời gian gần đây, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lực lượng chức năng Trung Quốc siết chặt quản lý XNK để phòng, chống dịch Covid-19 nên đã ưu tiên XNK với những lô hàng có hợp đồng. Đồng nghĩa với đó, các doanh nghiệp, chủ hàng không có hợp đồng phải chờ nhiều ngày mới đến lượt xuất hàng dẫn đến tốn kém chi phí, ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm. Thực tế đã có một số trường hợp do hàng hóa giảm chất lượng, không tiêu thụ được ở chợ biên giới đã phải chở hàng quay đầu bán tháo tại nội địa.

Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp, tư thương chưa mặn mà thực hiện HĐNT khi giao dịch là do về nguyên tắc: hàng nông sản, trái cây được XNK qua “luồng xanh” (miễn kiểm tra chi tiết hồ sơ, miễn kiểm tra thực tế hàng hóa) nên trong hồ sơ hải quan không nhất thiết phải xuất trình HĐNT. Cùng đó, doanh nghiệp, tư thương và bạn hàng còn giữ thói quen mua bán hàng hóa theo hình thức tự do, tự phát, không có ràng buộc. Hơn nữa, để thực hiện được HĐNT thì có những rào cản khó thực hiện, đó là hai bên đối tác phải đáp ứng đủ các yêu cầu, điều kiện cần thiết về trụ sở, cơ sở chế biến sản xuất hàng hóa, đáp ứng yêu cầu về bao bì, mẫu mã, nguồn gốc và chất lượng sản phẩm....

Bà Vũ Thị Nguyệt, một chủ doanh nghiệp nông sản thừa nhận: Cũng như nhiều chủ hàng khác, biết đi chính ngạch không được vì quy chuẩn hàng của Việt Nam chưa chuẩn và chất lượng chưa bảo đảm nên Trung Quốc chưa chấp nhận, nên vẫn phải chấp nhận chọn con đường duy nhất xuất khẩu tiểu ngạch sang nước bạn. Dù mất nhiều thời gian và chi phí phát sinh tăng cao, nhất là đối với các loại hàng phải chạy bảo ôn nhưng vẫn chọn con đường xuất tiểu ngạch, bởi muốn hàng hóa xuất khẩu chính ngạch thì phải có hợp đồng mua bán ngoại thương, hàng hóa cần đáp ứng tiêu chuẩn cao về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như phải đóng thuế đầy đủ trước khi thông quan...

Cần nâng cao chất lượng, chủng loại sản phẩm

Nhiều rủi ro khi buôn bán tiểu ngạch qua biên giới Lạng Sơn ảnh 1

Xe hàng nông sản chờ làm thủ tục xuất khẩu qua cửa khẩu Tân Thanh (Văn Lãng).

Giám đốc Sở Công thương tỉnh Phùng Quang Hội trao đổi: Trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, HĐNT, với đối tác nước ngoài là căn cứ pháp lý trong thực hiện giao hàng hóa giữa hai bên mua và bán theo thông lệ quốc tế, có tính bảo đảm và ổn định cao, mang lại nhiều lợi thế cho doanh nghiệp như: quyền lợi được bảo đảm, các điều khoản được ký kết trong hợp đồng là cơ sở để giải quyết những tranh chấp phát sinh nếu có trong giao dịch của hai bên. Mặt khác việc mua bán có HĐNT theo thông lệ quốc tế cũng tạo thuận lợi cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cụ thể như: kiểm soát trong quá trình vận chuyển nội địa, thuận lợi trong quy trình thông báo thủ tục hải quan điện tử, quản lý nhà nước về thanh toán, giảm thiểu việc dùng tiền mặt trong thanh toán... Tuy nhiên, qua nắm bắt, trao đổi thông tin từ phía Trung Quốc, hoạt động xuất khẩu nông sản của các thương nhân thực hiện tại các cửa khẩu phụ (phía Trung Quốc gọi là "cặp chợ biên giới", trong đó chủ yếu là là cửa khẩu Tân Thanh (Việt Nam) - Pò Chài (Trung Quốc), phát sinh cả cửa khẩu quốc tế và cửa khẩu chính, thường được các thương nhân xuất khẩu theo hình thức tiểu ngạch (trao đổi cư dân biên giới), do các thương nhân Trung Quốc tại khu vực biên giới (được cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc quyết định), được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế theo định mức 8.000 Nhân dân tệ (NDT), của cư dân biên giới...

Thời gian qua, Sở Công thương tỉnh Lạng Sơn thường xuyên có văn bản gửi các Sở Công thương các tỉnh, thành phố, khuyến cáo các doanh nghiệp, thương nhân quan tâm thực hiện các giao dịch xuất khẩu thông qua hợp đồng mua bán và chú trọng thực hiện các quy định về tem nhãn, truy xuất nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn vùng trồng, kiểm nghiệm, kiểm dịch, quy cách đóng gói, chất lượng chủng loại... để hạn chế tối đa những rủi ro, thiệt hại trong xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, do truyền thống và tin tưởng của những đối tác bạn hàng đã thực hiện nhiều năm và tận dụng được ưu đãi của Nhà nước (phía doanh nghiệp Trung Quốc) nên các doanh nghiệp, tư thương cũng chưa mặn mà thực hiện HĐNT...

Trong chuyến kiểm tra tình hình XNK hàng hóa qua địa bàn tỉnh Lạng Sơn ngày 18-4 vừa qua, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho rằng, muốn khắc phục tình trạng này, cần tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc và doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động đáp ứng các yêu cầu thị trường. Phải đẩy nhanh hơn, hiệu quả hơn quá trình tái cơ cấu liên kết chuỗi trong sản xuất. Đây là điều kiện căn cốt, nếu làm được điều này thì không chỉ đi thị trường Trung Quốc mà đi bất kỳ thị trường nào cũng đi được. Điểm thứ hai, việc phát triển hệ sinh thái về logistics phải nhìn nhận, đánh giá lại. Nếu chúng ta phát triển logistics một cách khoa học, hợp lý, bài bản, căn cơ thì mới thúc đẩy các ngành kinh tế được...

Tiềm năng phát triển kinh tế ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc là rất lớn, trong đó có nhiều loại nông sản, nhưng do phương thức xuất tiểu ngạch, qua trung gian nên thường bị động về giá cả và lượng tiêu thụ. Bởi vậy, nếu chúng ta không sớm xúc tiến, đẩy nhanh tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, bảo đảm các quy chuẩn theo thông lệ chung của quốc tế thì câu chuyện ùn tắc nông sản tại cửa khẩu, đặc biệt là tại tỉnh Lạng Sơn sẽ càng ngày càng trở nên nghiêm trọng khi nước bạn siết chặt các quy định về an toàn thực phẩm với nông sản nhập khẩu, đồng thời khuyến khích xuất - nhập khẩu chính ngạch.