Lý giải điều này, GS, TS, kiến trúc sư Hoàng Ðạo Kính - Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, nguyên Viện trưởng Viện Bảo tồn Di tích (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), khẳng định: Ðang có sự nhầm lẫn, cả về phương diện quản lý và quan điểm khoa học!
PV: Thưa Giáo sư, đã và đang có một nguồn kinh phí không nhỏ được chi cho công tác trùng tu, tôn tạo hệ thống di tích trên cả nước, song kết quả lại không được như mong muốn, thậm chí, "tác dụng ngược"?
GS, TS Hoàng Ðạo Kính: Trong vài chục năm nay, chúng ta đã làm được nhiều việc về nghiên cứu, về bảo tồn, cứu vãn và trùng tu các di tích văn hóa. Ðiều đó đã giúp hình thành những kinh nghiệm, cách thức, kỹ thuật, quan điểm trong việc trùng tu di tích, nhất là các di tích kiến trúc gỗ, vốn là đặc trưng của các di sản văn hóa vật thể Việt Nam. Tuy nhiên, đang có tình trạng nhiều di tích sau khi được trùng tu, tôn tạo lại "trẻ" ra, mới lên, thậm chí người ta nói là "đập hộp" thôi và "không có tuổi". Sau khi trùng tu, di tích thường được "nâng đời", khỏe lên, sống lâu... nhưng chính lại là sự hủy hoại độ già nua của di tích, hủy hoại vai trò chứng nhân lịch sử của những giá trị văn hóa đặc sắc. Tình trạng này có nguyên nhân từ chính cách nhận thức và ứng xử đối với hoạt động trùng tu, tôn tạo vốn rất đặc thù. Có hai vấn đề lớn, cần phải được quan tâm, giải quyết thật thấu đáo, đó là về phương diện quản lý và quan điểm nhìn nhận, ứng xử với di tích, nhất là những di tích đang "sống".
PV: Xin ông làm rõ từng vấn đề, trước hết về phương diện quản lý?
GS, TS Hoàng Ðạo Kính: Trùng tu, tôn tạo di tích là một công việc hết sức đặc thù. Ðó là công việc mang bản chất nghiên cứu, với sự tham gia của các nhà khảo cổ, nhà nghiên cứu mỹ thuật, nhà nghiên cứu lịch sử, kiến trúc sư chuyên về kiến trúc cổ... với mục đích cứu vãn, duy trì lâu dài cái còn sót lại của lịch sử, của văn hóa dân tộc. Nghề trùng tu, tôn tạo, nói một cách ví von là nghề của bác sĩ cấp cứu di tích. Di tích, sau khi được cấp cứu mà vẫn "già" như thế thì mới đúng. Chứ nếu sau khi được trùng tu mà di tích lại "trẻ" ra, hết nếp nhăn, tóc xanh trở lại thì không đúng đâu. Nói thế để thấy đây là công việc hết sức đặc thù, tưởng như có liên quan, nhưng thực tế lại chẳng liên quan gì đến hoạt động xây dựng, kiến trúc của đời sống hiện đại cả. Ấy thế mà từ khoảng 15 năm nay, các phần việc trong hoạt động trùng tu, bảo quản di tích lại được chuyển sang khu vực xây dựng cơ bản, với những quy trình, cách thức ứng xử như đối với việc xây mới một công trình kiến trúc hiện đại. Việc đưa ra những quy định này tưởng là bài bản, là hay, nhưng trên thực tế, lại đi ngược với những yêu cầu và đặc trưng của hoạt động trùng tu, bảo quản di tích, và kéo theo rất nhiều hệ lụy, khi mà, theo luật Xây dựng cơ bản, những đơn vị tham gia các dự án được lựa chọn theo phương pháp đấu thầu, và đơn vị nào có giá bỏ thầu rẻ hơn sẽ được chọn, mà không cần phải có kinh nghiệm về trùng tu, tôn tạo di tích.
PV: Nhưng mỗi dự án đều phải có thiết kế, và được một hội đồng chuyên môn thông qua?
GS, TS Hoàng Ðạo Kính: Vấn đề là, có những di tích chỉ cần sửa chữa không nhiều, nhưng khi đã lập thành dự án, thì những người làm đều muốn "thổi" mức đầu tư lớn, thời gian dài và can thiệp vào cả những cái không cần can thiệp. Trong khi, nhiều người liên quan đến công việc này nhưng không có vốn hiểu biết đầy đủ về di sản thì lại thường có tâm lý muốn di sản rất tươi tỉnh, khỏe mạnh. Họ muốn chấm dứt việc trùng tu trong một đợt, để... 30 năm sau mới phải trở lại. Ðó là điều không tưởng. Vì các di tích của ta phần lớn đều là kiến trúc gỗ, đều đã ở mức "ông già bà cả", các cấu kiện hư hỏng dần theo thời gian, nay một ít, mai một ít. Ðã là trùng tu, bảo quản thì không bao giờ nên coi là phải làm dứt điểm cả, mà phải bảo quản, chăm sóc để di tích "sống" lâu nhất có thể trong diện mạo xưa cũ cha ông đã trao lại cho chúng ta.
PV: Hiện đang có "phong trào" nâng cấp, làm mới di tích theo nguyện vọng của chính những người chủ trực tiếp của di tích, nhất là các di tích tín ngưỡng. Theo Giáo sư, nên nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
GS, TS Hoàng Ðạo Kính: Ðây chính là vấn đề thứ hai mà tôi muốn đề cập trong hoạt động trùng tu, tôn tạo di tích. Hiện đang có rất nhiều tranh cãi. Ở đây, tôi muốn nói là lâu nay chúng ta đã có phần quá cởi mở và dễ dãi trong việc xếp hạng di tích. Có những ngôi chùa mới ra đời khoảng năm 1940 cũng được xếp hạng. Cần phải xem xét và tái công nhận lại hệ thống di tích hiện có. Vấn đề là, hệ lụy của việc làm này liên quan đến công việc trùng tu, tôn tạo. Bởi khi đã là di tích, thì bất cứ việc làm nào động đến các yếu tố trong tổng thể cả kiến trúc đó đều có thể là việc làm phạm luật. Trong khi, lẽ ra ta nên công bố rõ yếu tố nào trong di tích đó là yếu tố quan trọng, được xếp hạng... để có kế hoạch bảo tồn nghiêm ngặt, yếu tố nào không cần, đi kèm đó là sự phân định những cách ứng xử khác nhau đối với từng loại di tích, từng yếu tố trong mỗi di tích. Phải có sự nhìn nhận mềm mại, linh hoạt. Các di tích tín ngưỡng phần nhiều đang hoạt động, nên cũng có những nhu cầu cải tạo, thay đổi để thích ứng với nhu cầu của cuộc sống ngày hôm nay. Cần hiểu rằng, chùa trước kia là chùa làng, còn nay, chùa là nơi chiêm bái, thư giãn, du lịch của hàng nghìn người. Lấy đâu không gian cho họ? Thế nên, đối với những yếu tố không có giá trị thật sự đặc sắc, mà cần phải sửa chữa, xây mới để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cuộc sống hôm nay, theo tôi, có thể lập hội đồng chuyên môn để đánh giá, xem xét và cho phép. Nhưng cái bổ sung, xây mới đó phải hài hòa với không gian, đặc trưng, đặc điểm của di tích, phải có chất lượng thẩm mỹ và chất lượng kỹ thuật.
PV: Giáo sư có nói rằng, do thực hiện đấu thầu, nên nhiều di tích được trùng tu, tôn tạo bằng đội ngũ những người không có kinh nghiệm. Nhưng nếu siết chặt lại các quy định, thì liệu chúng ta có đủ nhân lực có kinh nghiệm để thực hiện công việc phức tạp này?
GS, TS Hoàng Ðạo Kính: Ðội ngũ làm công tác bảo tồn đang rất yếu, và thiếu chuyên gia. Sẽ chẳng có cách nào khác hơn là bắt buộc phải đầu tư cho lĩnh vực đào tạo nhân lực. Mà ngay cả đào tạo hiện cũng đang thiếu chuẩn và thiếu thầy giỏi, có kinh nghiệm. Nhưng cứ phải làm đã, thì mới mong tình hình tốt lên được.
PV: Xin cảm ơn Giáo sư.