Tất cả những đồng chí trong nhà tù Côn Đảo, khám lớn Chí Hòa và các nhà tù khác của Mỹ - ngụy đều truyền khẩu học thuộc lòng bài Kinh nhật tụng của người chiến sĩ (Khương Hữu Dụng sáng tác, có sự đóng góp của Nguyễn Đình và Nguyễn Đình Thư, 1946), coi đó là kim chỉ nam cho mọi hành động, là lời nguyền để giữ trọn khí tiết.
Ví rủi phải mắc vành xiềng xích
Đành cắn răng một chết không khai
Chết là chết cái hình hài
Sắt son một tấm gương đời treo cao.
"Cháu đã gặp hàng ngàn cựu tù chính trị Côn đảo - đồng chí Nguyễn Đình Thống, cán bộ Ban Tuyên giáo Bà Rịa - Vũng Tàu kể-hầu như ai cũng học thuộc lòng bài Kinh nhật tụng của người chiến sĩ và hầu hết họ đều được truyền miệng, xem như những lời dạy của Bác Hồ. "Kinh" trở thành vũ khí tư tưởng sắc bén, một cẩm nang được ứng xử trong mọi tình huống trong tù".
Chị Võ Thị Thắng, biểu tượng của Nụ cười Việt Nam chiến thắng, hiện là Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch tâm sự với nhà thơ Khương Hữu Dụng: "Trong tù, con ở chung với chị Mỹ Hoa. Những người tù cả nam lẫn nữ đều thuộc Kinh nhật tụng... Nếu nói là sách gối đầu giường thì Kinh nhật tụng là bài thơ nằm lòng... Kinh đã trở thành tiềm thức từ lâu, nói lên suy nghĩ của mình, cảm nhận của mình, vừa nhắc nhở, vừa khuyên nhủ, vừa xác định ý chí chiến đấu"...
Một tác phẩm thơ ca lớn của Khương Hữu Dụng nữa là Từ đêm 19 (1951) cũng được các cán bộ, chiến sĩ quân đội ở Liên khu V nói riêng, cả nước nói chung học thuộc và còn vang vọng đến ngày nay, được tuyển chọn vào sách giáo khoa văn học.
Chỉ với riêng hai tác phẩm nói trên, Khương Hữu Dụng xứng đáng được nhận những phần thưởng cao qúy nhất của cách mạng, giải thưởng cao nhất của sáng tạo văn học nghệ thuật.
Sinh thời, dường như nhà thơ không mấy băn khoăn, để ý về điều đó. Ông chỉ mơ ước "Chỉ ước trọn đời khi nhắm mắt - được câu thần cú đủ vui rồi". Ông ra đi ở tuổi 99 xuân, ngày 17-5-2006 này là giỗ đầu, có lẽ ông chưa từng thỏa mãn với câu thơ nào của mình và coi đó là "thần cú". Bởi lẽ ông là người luôn đi về phía trước, luôn tìm đến cái cốt lõi nhất, tinh hoa nhất. Mà con đường ấy thì vô cùng.
Nhưng với tôi, với chúng ta, ông đã để lại nhiều áng thơ bất hủ, nhiều câu thần cú để ngâm nga, học tập.
Chỉ một câu thơ dịch từ thơ Đường thôi, câu "Thùy gia tư phụ thu đảo bạch? Nguyệt khổ, phong thê, châm chử bi" trong Văn dạ châm của Bạch Cư Dị mà Khương Hữu Dụng dịch là Thu đến nhớ chồng ai đập lụa, Gió trăng não lắm đá chày ơi! thì thật đã "ngữ kinh nhân", làm người khác rùng mình!
Nhà thơ Khương Hữu Dụng trong sáng tác cũng có nhiều bài thơ, câu thơ đẹp và sâu sắc về ý, về tứ, về từ mà người đọc còn phải công phu khám phá để nhận thấy nhiều tầng ý nghĩa.
Nhưng tôi lại rất yêu thích những bài thơ tình cảm, giản dị của ông. Thanh niên, học sinh một thời thường chép tặng nhau bài thơ Hẹn:
Em hẹn sao em chẳng tới
Để đèn rong mãi đêm khuya
Mòn mỏi bây giờ đã lụi
Em hẹn sao em chẳng tới
Để hoa bưởi đợi trong vườn
Tàn úa bây giờ đã rụngDù đã tắt ánh đèn
Dù đã lặn mặt trăng
Dù đã tàn hoa bưởi
Em, ơi em! Cứ tới
Riêng lòng anh vẫn đợiNhư ngôi sao Vượt giữa trời.
Bài Bạn xuân, viết tặng vợ, lại rất được lứa tuổi có độ chín của đời người tâm đắc:
Tôi có bạn xuân già
Trái tính khác người ta
Việc nhỏ thường xét nét
Việc lớn lại cho qua
Không ưa chồng chiều vợ
Lại chiều cháu quấy bà
Lỗi cháu thì xí xóa
Lỗi ông thì rầy la.
- "Bà lành, sao ông sợ"?
Bồng cháu ông cười xòa
- "Bà là bà nội tướng"!
Năm 1960, năm diễn ra Đại hội lần thứ III của Đảng, cũng là năm kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng CS Việt Nam, Tố Hữu có bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng". Cũng năm ấy, nhà thơ Khương Hữu Dụng có bài Những tiếng thân yêu sau này nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ thành bài hát đi vào lòng người:
Khi còn ở trong nôi
Đôi môi hồng bập bẹ
Thân yêu nhất đời ta
Tiếng đầu lòng Mẹ! Mẹ!Tuổi mười tám đôi mươi
Thêm vào hai tiếng mới
Tiếng Anh và tiếng Em
Hai mái đầu chụm lại
Nhiều giấc mơ cùng xây.Một bàn tay măng non
Quờ lên đôi má ráp
Một tiếng chim trong vắt
Đời vui thêm tiếng Con.Gia đình trong ba-lô
Bước lên đường cách mạng
Trong những tiếng thân yêu
Đã thêm vào tiếng Đảng.Lòng nôi nào không ấm
Giấc mơ nào không thành
Tiếng chim nào không trong
Khi đời ta có Đảng
Đảng là mẹ là con
Đảng là anh là em
(Nói thế nào cho đủ?)Đảng với ta là một
Đảng là ta nhân lên.
Cái hay của bài thơ này là ở những tiếng thân yêu, tiếng lòng, thiết nghĩ không cần đến sự phân tích mà tự nhiên, tha thiết, như cái lẽ không thể nào khác được. Biết bao nhiêu tình cảm, sự hướng vọng, chờ đón hạnh phúc trong một tiếng con gọi mẹ, tiếng anh gọi em và tiếng lòng ta gọi Đảng.
Thời gian càng lùi xa, giá trị tư tưởng và nghệ thuật bài thơ càng lớn. Với tất cả những điều ấy, nhà thơ Khương Hữu Dụng sẽ còn mãi với văn học và công chúng yêu văn học, xứng đáng để hậu thế noi gương, ngưỡng mộ.