Chợ lao động giữa phố núi
Ở thị trấn nhỏ xinh xắn nằm ở độ cao 1.500 m so với mặt nước biển lại có một “chợ lao động” nằm ở ngã ba trung tâm. Chỉ tiếc là trông buồn tẻ hơn chứ không rộn rã chào mời như những “chợ lao động” thường thấy ở thủ đô.
Từ bốn giờ sáng, bà Tẩn Thị Mẩy đã mang gùi, mang xẻng xuôi xuống thị trấn ngồi chờ. Có những bốn miệng ăn ở nhà đang chờ bà: ba đứa con nheo nhóc và một gã chồng 49 tuổi mất sức lao động vì nghiện. Nếu tìm được người thuê và cố nhịn không ăn bữa trưa ở nhà chủ, một ngày công bà có được 70.000 đồng. Nhưng đâu phải ngày nào cũng có việc mà làm, có khi đến cả tháng bà chỉ đi được ba bốn buổi, được vài ba trăm bạc, không đủ tiền để đong gạo.
Những người thuê họ là những chủ thầu xây dựng hoặc ai đó cần họ đào đất, vác đất, vác gạch, cát, xi măng... Chợ đông người thế, người ta cần người trẻ, chứ cần gì thuê những người đã trên 40 như bà Mẩy.
Bên cạnh bà Mẩy là ba mẹ con em Tẩn A Sú. Sú mới chỉ 5 tuổi thôi, còn đứa em nó mới chỉ ba tuổi đã nheo nhóc theo mẹ đến “chợ người”. Khi tôi hỏi Sú lúc mẹ em làm việc thì em sẽ làm gì, cậu chỉ cười mà không nói gì.
Một đứa trẻ mới tám tháng tuổi cũng được mẹ gùi đến “chợ” tìm việc làm. Ngồi đến quá trưa không có người thuê, người đàn bà này lại tay cầm gùi, cầm xẻng, lưng địu đứa trẻ đáng thương trở về.
Chợ người Sìn Hồ cũng đặc biệt hơn những chợ người phố thị, người bán sức hầu hết là đàn bà, lại phải làm những việc mang vác nặng nhọc của đàn ông. Một người qua đường nói với tôi: “Họ đi làm thuê để mua thuốc phiện cho chồng đấy!”.
Cả buổi sáng chẳng thấy có người thuê, tranh thủ lúc ngồi chờ việc, những người đàn bà lại luôn tay thêu vải. “Để may quần áo mặc thôi, chứ không bán đâu”, một người đàn bà nói.
Khi tôi hỏi tại sao họ phải bỏ bản ra thị trấn tìm việc, đa số những người đàn bà đáng thương đều nói họ làm gì có ruộng nương để cày cấy, một số ít có nương nhưng làm không đủ ăn, nên đành đứng ở chợ người đánh cược với vận may của mình để kiếm dăm bảy chục nghìn.
Anh Lê Văn Hà, cán bộ phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Sìn Hồ cho biết, chợ lao động này đã tự phát hoạt động từ hai năm nay. Có khoảng 200 người luôn đứng ở đây. Nhưng chính quyền huyện cũng chưa có biện pháp gì để quản lý họ cả.
Theo anh Hà, nguyên nhân Sìn Hồ phát sinh chợ lao động là vì do thiếu nước, Sìn Hồ chỉ canh tác được mỗi năm một vụ vào mùa mưa, nên lúc nông nhàn bà con ra đứng kiếm thêm cho khoản thu nhập quá thấp của mình. Thêm nữa, dân số ngày càng đông, nhưng đất cho trồng trọt lại chỉ có hạn nên nhiều người không có đất.
“Sinh sau không có đất”
Ngay bên vệ đường ở bản Phăng Sô Lin 1, thuộc xã Phăng Sô Lin là một ngôi nhà xiêu vẹo như chực đổ. Quanh quẩn trước cửa ngôi nhà im ỉm khóa ấy là hai đứa trẻ thò lò mũi xanh đang tranh giành nhau một chiếc bánh.
“Người dân ở đây vẫn quen thả cho lũ trẻ tự lớn như thế đấy. Vài ba tuổi đầu chúng đã phải biết tự vào bếp lấy cái ăn khi đói. Trước khi đi làm nương, bố mẹ chúng chỉ thổi một nắm gạo, hay làm mấy cái bánh ngô để lại cho chúng rồi đi cả ngày”, anh Tẩn Yêu Sơn, cán bộ văn phòng xã giải thích.
Ngôi nhà xiêu vẹo ấy là của gia đình của anh Chẻo A Dao, 18 tuổi lấy vợ mới 17 tuổi, được bố mẹ cho ra ở riêng. Anh Dao đã có hai đứa con, đứa ba tuổi, đứa hai tuổi. Vì không có nương, cả hai vợ chồng đang đi làm rẫy thuê cho người khác.
Ngay dốc núi bên kia đường là ngôi nhà cũng “nát” không kém của gia đình anh Chẻo A Sánh, anh trai của Dao. Anh Sánh có đến bốn người con. “Vợ tôi đẻ chứ tôi có biết gì đâu!”, Sánh hồn nhiên nói về những đứa con, đứa lớn nhất tám tuổi, đứa bé nhất mới hơn một tuổi của mình.
Nhà Sánh không có đất để cày cấy, vợ Sánh đang đi làm rẫy thuê, được người ta trả công bằng ngô. Nhưng số ngô đó chỉ đủ nuôi mấy con gà, không đủ nuôi lợn nên cả hai vợ chồng cũng không dám mua lợn về nuôi. Thu nhập chính của gia đình anh trông chờ cả vào cái chợ người mà thỉnh thoảng anh vẫn ra đứng đó. Có lẽ Sánh là một trong số ít đàn ông còn chịu khó đứng ở chợ người kiếm tiền nuôi vợ con.
“Mỗi tháng tôi kiếm được hơn 1 triệu đồng, số tiền đó dành hết để đong gạo. Mà gạo ở đây đắt lắm, 16 nghìn một cân, nên nhà tôi không đủ ăn đâu!”, Sánh than thở với tôi.
Bố mẹ Sánh nghèo, chỉ có một mảnh nương con con đã để cho người anh cả trồng trọt. Sánh và Dao sinh sau, được bố mẹ làm cho ngôi lều tạm để ở riêng nhưng không có đất, chỉ biết làm thuê kiếm sống.
Khi tôi hỏi về dự định của Sánh nếu được Nhà nước cho vay một khoản tiền, anh nói ngay: “Tôi sẽ tậu một mảnh ruộng, mà nếu đủ tiền tôi sẽ mua thêm một con trâu!”. Ước mơ nhỏ nhoi, khiêm nhường ấy của một nông dân miền sơn cước khiến tôi nghẹn đắng. Sìn Hồ nghèo đất đến thế sao?
“Gỡ” khó cho Sìn Hồ
Không. Sìn Hồ đâu có nghèo đất, trên gần 2.000 km2 đất chỉ có 73 nghìn người sinh sống. Đi dọc những con đường uốn lượn, tôi thấy mênh mông những đất hoang và núi trọc, chỉ thi thoảng mới có một vài làng bản với hơn chục nóc nhà. Không những thế, trong định hướng phát triển của mình, đất còn được chính quyền huyện Sìn Hồ xem là thế mạnh ở đây.
Tôi mang trăn trở của những người dân thiếu đất hỏi ông Phạm Ngọc Phương, Phó Chủ tịch UBND huyện Sìn Hồ, ông cho rằng khai hoang đất để làm ruộng lúa nước thì Sìn Hồ thiếu, nhưng đất trồng cây công nghiệp, lâm nghiệp thì có nhiều. Chẳng qua người dân từ xưa đến nay chỉ quen trồng lúa ngô để tự túc nguồn lương thực cho mình, nhưng vùng đất sỏi đá lại không “chiều” lòng người , cây cứ úa vàng không thu hoạch được, nên thiếu ăn quanh năm.
"Đất cho cây công nghiệp không thiếu" - lối thoát ở đây chăng? Vấn đề là "bà đỡ" Nhà nước, với giống, vốn quy trình canh tác, bao tiêu đầu ra, đầu tư để thay đổi hẳn tập quán canh tác, không để dân loay hoay, luẩn quẩn đói nghèo mãi.
Chuyển sang trồng cây dược liệu cũng đang là một hướng mới ở Sìn Hồ. Huyện đang kết hợp với Tập đoàn Y dược Bảo Long tạo điều kiện cho một số bà con học cách áp dụng khoa học kỹ thuật để canh tác, quản lý, nhân giống, nuôi trồng một số cây dược liệu. Mô hình này đang triển khai thí điểm, khi nhân rộng, nhiều hộ gia đình sẽ có cơ hội áp dụng kỹ thuật để trồng dược liệu ngay trên ruộng nương nhà mình.
Sìn Hồ có hai mùa rõ rệt, mùa khô và mùa mưa. Vào mùa khô, đến nước sinh hoạt còn thiếu, huống hồ là nước tưới tiêu, nên ruộng nương cứ bỏ không, không chỉ gạo mà cả đến rau cũng còn phải nhập từ Điện Biên về.
Hiện nay, huyện đang xây dựng một hồ đập, với sức chứa khoảng 2,4 triệu m3 nước. Khi xây dựng xong đập, huyện sẽ có một hệ thống thủy lợi dẫn về cánh đồng thị trấn này và tưới cho khoảng 183ha ruộng đồng của trong thị trấn. Lúc đó, những người nông dân sẽ chuyển từ lúa một vụ sang trồng cây rau vụ đông như xu hào, bắp cải, súp lơ…
Thêm nữa, một nội dung trong thỏa thuận được ký giữa VNPT với UBND tỉnh Lai Châu là Tập đoàn sẽ đầu tư xây dựng mới, đồng bộ một cơ sở dạy nghề tổng hợp tại thị trấn huyện Sìn Hồ. Đối tượng được đào tạo chính là những người dân “quanh năm nông nhàn” đang phải đứng bán sức lao động ở chợ người, ông Phương cho biết. Những người có đất sẽ được học cách trồng những loại cây phù hợp với đất của mình, còn những người không tấc đất sẽ được đào tạo nghề để đủ kiếm sống...
Khi nghe ông Phó Chủ tịch huyện nói, tôi chợt nghĩ đến hai anh em Chẻo A Sánh và Chẻo A Dao, chủ nhân của hai ngôi nhà dựng tạm cheo leo bên vệ đường đến bản Phăng Sô Lin 1, nghĩ đến những người đàn bà ngồi chờ “cái việc” ngoài thị trấn... Họ đang có cơ hội để kiếm đủ ăn cho gia đình.
Làn mây vẫn vây phủ Sìn Hồ huyền ảo, nhưng với đầu tư đúng hướng và khát vọng vươn lên nghèo đói rất có thể sẽ “tan”...
(còn nữa)