Nghiên cứu di sản Hán Nôm có thể tư vấn tốt cho chính sách

Hội thảo “Vai trò của Hán Nôm trong văn hóa đương đại” do Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, tổ chức mới đây tại Hà Nội cho thấy có sự khác biệt, thể hiện định hướng đặt Hán Nôm trong bối cảnh đương đại để bàn luận và tư vấn chính sách.

Di sản Hán Nôm ngày càng được nghiên cứu sâu hơn.
Di sản Hán Nôm ngày càng được nghiên cứu sâu hơn.

Sự tiếp nối từ truyền thống đến hiện đại

Ở Việt Nam, di sản Hán Nôm là nguồn tư liệu chữ viết sớm nhất, có chiều dài lịch sử lâu đời nhất, với số lượng lớn nhất đề cập đến gần như tất cả các phương diện đời sống xã hội Việt Nam suốt thời gian dài trong quá khứ như: Văn hóa, lịch sử, triết học, tín ngưỡng tôn giáo, mỹ thuật, văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ và cả khoa học - kỹ thuật... Di sản tư liệu Hán Nôm là một bộ phận tiêu biểu thể hiện bề dày của văn hiến Việt Nam không thể bị lãng quên. Tìm trong quá khứ để nhận ra những bài học cho hôm nay, tìm trong di sản để chọn lọc những yếu tố tích cực với việc phát triển xã hội hiện đại là điều cấp thiết.

Những năm gần đây, ngành Hán Nôm đã được quan tâm nhiều hơn, không chỉ trong giới nghiên cứu Hán Nôm chuyên nghiệp, mà còn từ nhiều góc nhìn khác của đời sống xã hội. Một số tác giả không hẳn là chuyên gia Hán Nôm, nhưng đã đưa ra những góc nhìn thú vị về Hán Nôm từ chuyên môn khác, giúp cho các nhà làm Hán Nôm chuyên nghiệp có thêm cơ hội tốt để “nhìn mình qua lăng kính của người khác”.

Không khó khăn lắm vẫn có thể thấy sự tiếp nối của văn hóa Hán Nôm từ truyền thống đến hiện tại: Sự hồi sinh của thư pháp, dấu tích của Hán Nôm in đậm trên các di tích, trong các tín ngưỡng, lễ nghi, phảng phất trong các hình thức biểu diễn nghệ thuật,… Trong những vấn đề “nóng” của thời sự đương đại còn thấy tư liệu Hán Nôm có giá trị quan trọng đối với việc nghiên cứu Biển Đông và đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Đóng góp vào tư vấn chính sách văn hóa

Ngành Hán Nôm có thể đóng vai trò tư vấn cho các chính sách văn hóa ở cả tầm quốc gia cũng như ở từng địa phương, góp phần hoàn thiện những bất cập, chỉnh đốn những lệch lạc, “gỡ rối” cho những tranh luận.

Chỉ đơn cử một biểu hiện gây bức xúc là việc “đóng” và “phát” ấn tràn lan trong dịp đầu năm ở đền Trần (Nam Định) và một số di tích khác. TS Phạm Văn Tuấn (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nói rõ: “Ấn tín sinh ra trong thời quân chủ phong kiến, mỗi ấn khi đóng xuống một văn bản đều có nội dung phía trước và đóng ấn vào niên đại phía sau. Vì thế không thể đóng một cái ấn ra một tờ giấy, một mảnh vải mà không có nội dung gì để “ban phát”. Đó là việc làm không có giá trị, không mang ảnh xạ nào về văn hóa mà đã làm xấu đi, làm phản giá trị của ấn tín, của những nghi lễ triều đình xưa”. PGS, TS Nguyễn Công Việt (nguyên Viện trưởng Nghiên cứu Hán Nôm) thẳng thắn chỉ ra lý do vì sao việc “phát” ấn lại “nở rộ” ở nhiều địa phương: “Xu hướng hành chính hóa lễ hội, biến lễ hội từ một nghi thức tượng trưng thành một nghi lễ mang tính thực dụng cầu thăng quan tiến chức, thương mại hóa lễ hội, hình thành nhóm người buôn dấu ấn với nhau”. PGS, TS Việt cũng đề nghị cần tổ chức kiểm tra những di tích đền Trần có sử dụng ấn tín trong lễ hội và phải đình chỉ (ngay) việc sử dụng các hiện vật ấn và văn bản đóng dấu không có xuất xứ lịch sử, không có cơ sở rõ ràng hoặc có sai sót về nội dung chuyên môn.

Không thể phủ nhận vai trò của việc nghiên cứu và am hiểu Hán Nôm sẽ hết sức hữu ích trong việc tư vấn chính sách trong nhiều lĩnh vực: Quản lý văn hóa các cấp (hoàn thiện nếp sống mới, hương ước mới...); công nhận và tôn vinh di sản (tiêu biểu là các trường hợp Châu bản triều Nguyễn, Kim ngọc bảo tỷ triều Nguyễn); công tác quản lý văn hóa tại địa phương (quản lý các hoạt động trong lễ hội truyền thống); trùng tu, tôn tạo di tích và giám định cổ vật; bảo tồn bảo tàng tại các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng (sắc phong, bia, mộc bản); trưng bày và triển lãm văn vật có văn tự Hán Nôm (hiện vật bảo tàng, triển lãm chuyên đề về các di tích, di sản); quản lý du lịch (du lịch tri thức Hán Nôm tại các di tích và về các di tích, tập huấn đội ngũ hướng dẫn viên).

Việc dạy Hán Nôm thậm chí là đưa môn Hán Nôm vào chương trình học phổ thông vẫn còn nhiều tranh luận song điều được đồng thuận ngay từ đầu là cần phải làm cho học sinh biết trân trọng giá trị và hứng thú với kho tàng di sản văn hóa Hán Nôm của cha ông để lại. Nuôi dưỡng được nguồn yêu thích này, các em sẽ có những lựa chọn chuyên sâu hơn trong giai đoạn học tập tiếp theo ở các bậc đại học, sau đại học.

Những hội thảo về Hán Nôm thường đi sâu bàn chuyện học thuật và tư liệu theo cách “lấy tài liệu Hán Nôm cổ làm bản vị”. Cách đặt vấn đề “lấy đương đại làm bản vị để nhìn Hán Nôm” là sự khác biệt của hội thảo Vai trò của Hán Nôm trong văn hóa đương đại với những hội thảo Hán Nôm trước đây. Đây là hội thảo đầu tiên đánh giá vai trò của Hán Nôm trong đời sống văn hóa - xã hội Việt Nam đương đại. Cuộc tranh luận vẫn còn đang tiếp tục nhưng những phát hiện và kiến giải sẽ là cơ sở để tư vấn chính sách trong các vấn đề liên quan.

Có thể bạn quan tâm