Nghe tiếng trống chèo...

Sinh ra và lớn lên ở miền quê trung du đất đỏ, những làn điệu dân ca thấm vào tôi như rau cháo hằng ngày, qua những câu hát, lời ru của bà, của mẹ. Ngày ấy, phương tiện giải trí duy nhất mà gia đình tôi có được là chiếc ra-đi-ô chạy bằng pin nước, coi như "báu vật" trong nhà. Tôi thuộc làu giờ phát tất cả các chương trình trên sóng phát thanh, nhất là các chương trình "30 phút dân ca và nhạc cổ truyền của Ðài Tiếng nói Việt Nam", "Sân khấu truyền thanh", chưa khi nào bị tôi bỏ lỡ. Văn công về biểu diễn, nhất là diễn chèo, bao giờ tôi cũng nhận làm hết công việc trong nhà chỉ để đến tối năn nỉ bố mẹ cho đi xem hát. Nội dung các vở chèo cổ như Quan âm Thị Kính, Trương Viên, Kim Nham, Lưu Bình - Dương Lễ,... tôi thuộc như "cháo chảy". Những Cô Son, Nàng Si-ta... đã "lấy" hết nước mắt của biết bao nhiêu khán giả ngồi xem. Ngày Tết, ngày lễ sân đình rộn tiếng trống chèo, nhà nhà nô nức. Chèo ngày ấy có sức hấp dẫn lạ kỳ, hấp dẫn bởi giai điệu mượt mà, tính tự sự, trữ tình, nội dung mang đậm tính nhân văn.

Mới đấy thôi mà đã gần hai mươi năm, cuộc sống thời hiện đại cuốn tôi theo, dần sao nhãng với "món ăn tinh thần" mà mình yêu thích. Ðến một hôm, cô hàng xóm đón mẹ ở quê ra chơi, vật dụng quý nhất bà mang theo đó là chiếc đài thu thanh nhỏ xíu, nhờ đó mà tôi  được nghe lại âm thanh tom-chát của tiếng trống chèo và quyết định đi xem hát chèo.

Nhà hát Chèo Hà Nội rộn ràng hơn tôi tưởng. Khán phòng khoảng 200 chỗ ngồi chật kín, nhiều người còn đứng xem. Hôm ấy, Nhà hát không tổ chức diễn vở mà chỉ diễn các màn múa hát và trích đoạn chèo như: Vỡ nước, Chí Phèo - thị Nở, Từ Thức gặp Tiên, Mưu cao thị Hến... Ðược nghe lại những làn điệu thuở nào, tôi bồi hồi như trở lại tuổi thơ, chợt thấy mình đã quá vô tình với nghệ thuật truyền thống. Sau mỗi tiết mục, những tràng pháo tay từ phía khán giả vang lên không ngớt, nghệ sĩ đã cúi chào khán giả, đi vào cánh gà lại quay ra để nhận những bó hoa tươi thắm thể hiện  thịnh tình của những người mê chèo: người già, người trẻ, khách nước ngoài và cả trẻ em... Họ đều đắm theo những làn điệu trữ tình, sâu lắng, xót xa khi Chí Phèo (qua sự thể hiện xuất sắc của nghệ sĩ Mạnh Hùng) vật vã muốn trở thành người lương thiện, thương cho thân phận thị Nở xấu xí, vô duyên nhưng khi yêu cũng nồng nàn như bao người khác. Trích đoạn này đã làm nhiều người xem rơi nước mắt.

Ngồi cạnh tôi là Tố Nga, 25 tuổi, cán bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam. Cô cùng bạn trai lần đầu đi xem chèo, trước là tò mò, xem rồi lại thấy yêu thích và chưa hết buổi diễn cô đã tìm được lý do để lần sau quay lại. Gia đình chị Trần Thị Dung, 33 tuổi, ở số 9, ngõ 252, Ngõ Chợ Khâm Thiên,  hôm ấy đã đóng cửa hàng để cả nhà cùng đi xem. Chị tâm sự: "Bình thường mình vẫn hay nghe chèo nhưng chỉ nghe qua băng, đĩa. Hôm nay được người quen mời đi xem trực tiếp, mình lại càng mê, cho cả con đi cùng để nó biết về nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Trẻ con bây giờ chỉ thích hoạt hình, siêu nhân, lớn lên một chút chỉ nghe rock, hip hop... chẳng biết gì đến nghệ thuật truyền thống của nước nhà". Nghe chị nói, tôi cảm thấy mình có lỗi, bởi mặc dù từng yêu chèo, nhưng chưa bao giờ tôi có ý thức giáo dục con, hướng cho con tìm hiểu văn hóa dân gian như chị.

Chèo cũng như các môn nghệ thuật truyền thống, chịu sự chi phối của quy luật thị trường, cũng như sự thăng trầm của cuộc sống. Những năm 60 - 70 của thế kỷ trước có thể coi là thời kỳ "thịnh" của nghệ thuật chèo, không chỉ ở sân khấu dân gian mà ngay trong sân khấu "hộp". Khán giả muốn xem hát chèo nhiều khi phải xếp hàng mua vé trước đó vài tuần. Nghệ sĩ lên sân khấu biểu diễn trong niềm tự hào được cống hiến cho nghệ thuật dân tộc. Ngoài các vở chèo cổ cần bảo tồn, các lớp nghệ sĩ còn dày công tìm tòi, sáng tạo, mang lại cho chèo một diện mạo mới mà vẫn không rời xa cái "gốc" của chèo, đặc biệt phải kể đến vở chèo Bài ca giữ nước (gồm ba phần) của cố NSND Tào Mạt (Ðoàn chèo Tổng cục Hậu cần dàn dựng). Năm 1983, Ðoàn chèo Hà Nội ra mắt công chúng yêu chèo vở Nàng Si-ta (kịch bản: hai cố tác giả Lưu Quang Thuận và Lưu Quang Vũ; chuyển thể chèo: Cố tác giả Việt Dũng). Nàng Si-ta đã gây được tiếng vang lớn, bởi đã tập hợp được tất cả những "cái nhất" mà bất kỳ môn nghệ thuật nào cũng cần: kịch bản, đạo diễn, diễn viên. Nàng Si-ta nổi tiếng đến mức Ðoàn chèo Hà Nội được dân gian quen gọi là Ðoàn Nàng Si-ta.

Ấy vậy, có lúc tưởng như nghệ thuật chèo  bị chìm dần vào quên lãng. Ðó là lúc cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật là "bùng nổ"  các loại phương tiện thông tin đại chúng, kỹ thuật nghe nhìn... Công chúng  rời xa rạp hát, chiếu chèo ở các vùng quê tan rã dần; chỉ còn người, không còn phường, hội; nhiều nghệ sĩ đành rẽ ngang, để lại niềm đau đáu cho những nghệ sĩ chân chính quyết tâm phục dựng vị trí của chèo. Tâm sự về nghề, NSƯT Mai Hương, Phó Giám đốc Nhà hát Chèo Hà Nội, chia sẻ: Những người yêu nghề như chúng tôi không đành để nghệ thuật dân tộc bị mai một. Nối tiếp  tên tuổi các NSƯT đã làm nên "thương hiệu" Chèo Hà Nội như: Thanh Trầm, Mạnh Thường, Mạnh Phóng, Quý Bôn, Bích Nhuần... chúng tôi, những NSƯT: Quốc Chiêm, Thúy Mùi, Mai Hương, Xuân Hanh, Xuân Hinh, Quốc Anh, Thu Huyền... tiếp tục khẳng định vị thế của nhà hát. Từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, Ðoàn đã bền bỉ  đi diễn khắp trong nam, ngoài bắc. Với lòng yêu nghề không gì lay chuyển, với niềm tin nghệ thuật chèo sẽ tồn tại, phát triển và thăng hoa, dần dần chúng tôi nhân lên số lượng khán giả, nhân lên lòng yêu nghề, nhân lên số vở diễn. Nhà hát cũng là một trong những đơn vị đi đầu trong việc tìm cách quảng bá nghệ thuật truyền thống. Trong đó, chủ trương đưa chèo vào các chương trình Sân khấu học đường, cử người đến các trường THCS dựng các trích đoạn nổi tiếng như Tấm Cám, Xã trưởng - mẹ Ðốp, Thị Màu lên chùa... kết hợp giáo viên các môn văn, sử hướng dẫn các em biểu diễn những trích đoạn minh họa cho nhân vật trong bài học; mời các nhà nghiên cứu  đến nói chuyện và giải thích về nghệ thuật chèo: tích truyện, âm nhạc, nhân vật, kỹ thuật biểu diễn... Ðến tận cơ quan, xí nghiệp giới thiệu và "tiếp thị" cho nghệ thuật truyền thống.  Nhà hát còn phối hợp một số công ty du lịch biểu diễn các tiết mục như tấu bầu, tấu sáo, tấu nhị... phục vụ du khách nước ngoài muốn tìm hiểu nghệ thuật chèo Việt Nam.

NSƯT Thu Huyền, một trong những tài năng trẻ của làng chèo Việt Nam, tên tuổi cô gắn liền với những vai diễn thành công như thị Màu, thị Hến...  Cô bộc bạch: Trong xã hội hiện nay, nhiều lúc không khỏi chạnh lòng, nhưng đam mê và trách nhiệm bảo tồn vốn văn hóa truyền thống giúp chúng tôi trụ lại với nghề. Nghệ thuật dân tộc có sức hấp dẫn riêng, nhiều người vì mưu sinh phải rời xa ánh đèn sân khấu không tránh khỏi quay quắt nhớ nghề, nhớ vai diễn của mình. 15 năm gắn bó với nghề, khán giả có lúc đông, lúc vắng, nhưng với tôi, quan trọng là sự cảm thụ và tình cảm của khán giả dành cho vai diễn và diễn viên. Dù chỉ một người xem, nhưng họ chăm chú lắng nghe, tôi vẫn diễn hết mình.

Không chỉ những nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp trên sân khấu mà các thầy giáo, cô giáo và sinh viên ngành chèo cũng cùng chung tâm sự. Cô giáo, thạc sĩ Nguyễn Thị Lụa, giảng viên bộ môn chèo, Khoa  Kịch hát dân tộc, Trường đại học Sân khấu - Ðiện ảnh người đã 18 năm đứng lớp nhưng niềm đam mê vẫn như thuở nào, "dù đời sống chật vật nhưng chỉ sợ phải bỏ nghề, bởi không biết nếu thiếu vắng tiếng trống chèo, cuộc sống của mình sẽ ra sao". Tôi chứng kiến cả một buổi học làn điệu chèo mẫu, cô kiên trì dạy các em "bẻ làn, nắn điệu", chỉ một câu  trong bài Tò vò, cô hát đi, hát lại cả chục lần, khi nào trò hát đạt yêu cầu mới thôi. Cảm hứng và tình yêu nghề, cô truyền cả cho học sinh của mình. Lương Anh Thư và Nguyễn Anh Tú, những sinh viên năm thứ ba cho biết, các em đến với chèo trong băn khoăn của cả gia đình và bè bạn, nhưng "nếu chỉ nghĩ đến thu nhập sau khi ra trường thì rất khó học nghề".

Nền nghệ thuật truyền thống nước nhà tự hào có những người như họ. Tuy nhiên, chỉ đam mê và cống hiến của một số cá nhân thôi chưa đủ để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, nếu không có một cơ chế đồng bộ. Những năm gần đây, Ðảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng nhà hát, sân khấu biểu diễn, phương tiện đi lại, đời sống nghệ sĩ, giảm học phí cho sinh viên ngành kịch hát dân tộc,... nhưng thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Ngay trong khâu tuyển chọn, hiện nay, với hệ thống trường cao đẳng, đại học vẫn phải trông chờ vào nguồn hồ sơ thí sinh nộp qua Bộ Giáo dục - Ðào tạo, nghĩa là các em đã học xong chương trình phổ thông. Ðối với một số ngành nghệ thuật đặc thù, trong đó có chèo, là loại hình nghệ thuật kết hợp cả dân ca, dân vũ, do đó nếu các em đã ở độ tuổi trưởng thành, thì rất khó đạt được khả năng mềm dẻo trong biểu diễn, hơn nữa nếu chỉ chờ các em nộp hồ sơ thi tuyển như vậy, sẽ khó chọn được người thật sự có thanh - sắc. Thầy Triệu Quang Vinh, Trưởng Khoa kịch hát dân tộc cho biết, hằng năm chỉ tiêu cho bộ môn chèo là 15 sinh viên. Năm học 2007-2008, khoa nhận 80 hồ sơ đăng ký chuyên ngành chèo, nhưng chỉ có 40 thí sinh đến dự thi, chọn được 10 em, nhưng chất lượng cũng chỉ ở mức chấp nhận được. Yêu cầu đặt ra là cần có kinh phí để các trường đến tận những vùng quê chèo truyền thống tuyển dụng, có thể các em chưa học hết phổ thông, nhưng có năng khiếu nổi trội, đưa về đào tạo cả chuyên môn và văn hóa.

Mặt khác, ngay chương trình đào tạo cũng bất cập. Số lượng đơn vị học trình các môn đại cương chiếm hơn một phần ba, thời gian dành cho các môn cơ bản như: luyện thanh, lồng điệu chèo, kỹ thuật biểu diễn, làn điệu chèo mẫu... không đủ yêu cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sinh viên khi ra trường. Ðó là lý do để các đoàn, nhà hát "kêu trời" vì phải đào tạo lại.

Chèo là bộ môn nghệ thuật truyền nghề, thầy nào - trò nấy, do đó, nếu chúng ta không sớm có những biện pháp để giữ thầy và tìm trò thì nguy cơ bị mai một, thất truyền là rất lớn. Những người yêu văn hóa dân tộc luôn hy vọng, đời con, cháu mình vẫn tìm thấy nét quyến rũ, thấy rung động bởi tiếng trống chèo. Bởi ở đó, hồn quê luôn chảy.

Có thể bạn quan tâm