Ngành nhựa: Khó từ vật lực đến nhân lực

Ngành nhựa: Khó từ vật lực đến nhân lực

Phát triển nhanh nhưng chỉ ở mức gia công

Tại cuộc hội thảo "Đào tạo kỹ thuật cho ngành công nghiệp nhựa Việt Nam" diễn ra tuần qua ở TP Hồ Chí Minh, nhiều đại biểu đã phân tích những điểm yếu của ngành nhựa Việt Nam tuy những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của ngành này vẫn rất cao. Cuộc hội thảo do Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA), Tổng công ty Nhựa Việt Nam (Vinaplast), trường Cao đẳng Công nghệ thực phẩm TP Hồ Chí Minh và Trung tâm KISMEC của Malaysia phối hợp tổ chức.

Tiến sĩ Đặng Tùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, đưa ra một vài con số để chứng minh sự phát triển ấn tượng của ngành nhựa Việt Nam. Năm 1989, ngành nhựa mới đạt được sản lượng ngang bằng với trước năm 1975 là 50.000 tấn. Liên tục trong vòng 10 năm sau đó ngành nhựa phát triển trung bình 25-30% và sản lượng gia tăng 20 lần, đạt gần 950.000 tấn vào năm 2000. Mức phát triển của năm năm qua mặc dù không bằng thời gian trước nhưng vẫn cao,  18-20%, đạt sản lượng 1,6 triệu tấn năm 2004.

Đóng góp vào tốc độ phát triển nhanh như vậy phải kể đến vai trò của khối doanh nghiệp tư nhân. Trong hơn 2.000 doanh nghiệp ngành nhựa hiện nay, khối này chiếm đến 85% và có mặt trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cung ứng nguyên liệu. Tuy nhiên, khối doanh nghiệp này lại yếu về vốn, đến 80% có quy mô nhỏ và vừa.

Điều đó cũng là nguyên nhân dẫn đến thực trạng là ngành công nghiệp nhựa chỉ mới ở giai đoạn gia công sản phẩm, thiếu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao cung cấp cho các ngành công nghệ như điện - điện tử, xe hơi, tự động hóa, đồ chơi trẻ em...

Trong khi đó, ông Tùng cho biết, hiện các quốc gia xuất khẩu sản phẩm nhựa lớn nhất vào Mỹ là Trung Quốc, Thái-lan và Malaysia đang bị áp thuế chống bán phá giá với tỷ lệ to 35-130%. Năm 2004, nhiều nhà nhập khẩu Mỹ chuyển sang tìm nguồn hàng từ Việt Nam nhưng có rất ít giao dịch thành công vì năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước còn thấp, không thể đáp ứng các đơn hàng lớn, kịp thời cũng như không chủ động được nguồn nguyên liệu.

Phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu

Theo Chủ tịch VPA Nguyễn Đăng Cường, năm 2004 ngành nhựa xuất khẩu khoảng 10% sản lượng, trong đó kim ngạch xuất khẩu trực tiếp 260 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu tại chỗ khoảng 300 triệu USD. Tuy nhiên, lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm trung bình 20-30% vì giá nguyên liệu tăng đột biến. Thiệt hại này sẽ còn tiếp tục vì đến nay Việt Nam vẫn thiếu vắng ngành công nghiệp nguyên liệu phụ trợ.

Hằng năm ngành nhựa phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu với khoảng 1,5-2 triệu tấn, chưa kể hàng trăm loại hóa chất phụ trợ. Hai liên doanh sản xuất bột nhựa PVC và dầu DOP với tổng công suất 200.000 tấn/năm cũng chỉ mới đáp ứng chưa tới 10% nguồn nguyên liệu. Theo ông Đào Duy Kha, Trưởng phòng Đầu tư của Vinaplast, trong điều kiện tiêu thụ nội địa đến 90% ngành nhựa chưa bộc lộ hết sự yếu kém, nhưng sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu sẽ tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp khi hội nhập.

Trong chiến lược phát triển ngành nhựa Việt Nam đến năm 2010, Bộ Công nghiệp có tính đến việc đầu tư gần một tỷ USD cho năm nhà máy sản xuất nguyên liệu nhựa PVC, PS, PE nhưng tất cả đến nay vẫn còn là dự án. Trong khi đó, chiến lược này gắn liền với nguyên liệu đầu nguồn của khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất và dự án hóa dầu Nghi Sơn. Cả hai dự án này đều còn rất xa vời. Như vậy, việc phụ thuộc nguồn nguyên liệu đến nay xem như chưa có hướng giải quyết.

Vẫn là yếu tố con người

Khâu đào tạo cũng đang làm hạn chế lớn đến năng lực cạnh tranh của ngành này. Theo ông Kha, hiện Việt Nam chưa có trường đại học, cao đẳng, trung học nghề chuyên đào tạo nhân lực ngành nhựa. Hai trung tâm chất dẻo tại TP Hồ Chí Minh và Hà Nội chủ yếu thiên về nghiên cứu trong khi các ngành sản xuất cần công nhân được đào tạo về kiến thức và tay nghề. Điều này dẫn đến hệ quả là các kỹ sư đầu ngành hầu như được đào tạo từ các ngành khác chuyển qua và lao động phổ thông thì chưa trải qua các khóa căn bản về tay nghề.

Khảo sát 905 doanh nghiệp sản xuất, có hơn 9.000 lao động, trong đó tỷ lệ chưa qua đào tạo của khối lao động trực tiếp chiếm đến 70%, cao gấp bảy lần so với lao động ngành công nghiệp nói chung. Tiến sĩ Đặng Tùng cho rằng thiếu chú trọng đào tạo cũng là nguyên nhân căn bản dẫn đến việc doanh nghiệp Việt Nam chỉ tập trung đầu tư các sản phẩm tiêu dùng cơ bản.

Chia sẻ kinh nghiệm của Malaysia về phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp nhựa, ông Wan Ismail Ibrahim, Giám đốc KISMEC, cho biết ngành nhựa Malaysia đã phát triển nhanh nhờ đào tạo theo mục tiêu phát triển ngay từ đầu. Song song đó, Chính phủ cũng đề ra chiến lược phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ như tạo khuôn, tái chế, pha chế hóa chất, cung cấp máy móc... "Để phát triển được ngành nhựa cần có một kế hoạch phát triển phù hợp với kế hoạch chung của nền kinh tế. Trong đó khâu đào tạo là then chốt và cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ và các doanh nghiệp", ông Wan chia sẻ.

---------------

Quy mô ngành nhựa
Năm 1990 1995 2000 2004 2005
(dự báo)
2010
(dự báo)
Sản lượng (1.000 tấn) 60 280 937 1.600 2.100 4.200
Mức tiêu thụ đầu người (kg/người) 0,91 3,79 11,57 20,1 25 40

Nguồn: Hiệp hội Nhựa Việt Nam

Có thể bạn quan tâm