Tạo ra sản phẩm KHCN có tính đột phá
Quân ủy T.Ư, Bộ Quốc phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới cơ chế quản lý và cơ chế hoạt động KHCN và môi trường; gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất quốc phòng; tạo ra các sản phẩm KHCN có tính đột phá. Thiếu tướng, PGS, TS Ðoàn Hùng Minh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục CNQP cho biết: Những năm qua, Tổng cục đã tập trung nguồn lực đầu tư cho các dự án trọng điểm để xây dựng mới và hiện đại hóa dây chuyền, công nghệ chế tạo, sửa chữa, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) mới, có bước đột phá về KHCN và có tính lưỡng dụng cao; thực hiện tốt việc kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng; tiếp tục nghiên cứu, sản xuất mới và nâng cao chất lượng các chủng loại vũ khí lục quân; ưu tiên cho nhiệm vụ phục vụ hiện đại hóa các lực lượng: hải quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật, cảnh sát biển… Ðồng thời, thực hiện chuyển đổi cơ chế và sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc phòng bảo đảm tinh, gọn để phát huy hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó chú trọng phát triển nguồn nhân lực làm công tác nghiên cứu khoa học nói chung và trong lĩnh vực nghiên cứu VKTBKT phục vụ quốc phòng nói riêng. Do vậy, ngành CNQP đã tạo ra nhiều sản phẩm VKTBKT đáp ứng nhu cầu trang bị của Quân đội như: tàu chiến, ra-đa cảnh giới và phát hiện mục tiêu, các loại vũ khí cho lục quân..., có chất lượng, tính năng tương đương trình độ của các nước tiên tiến ở khu vực và trên thế giới. Trong đó, đã tổ chức thành công cuộc bắn trình diễn 10 loại vũ khí thế hệ mới và được lựa chọn là một trong 10 sự kiện KHCN tiêu biểu của đất nước năm 2015. Phần lớn các sản phẩm quân sự do Tổng cục CNQP chế tạo là kết quả nghiên cứu KHCN bằng nội lực trong nước, như: các loại súng bộ binh mẫu mới; khí tài ngắm bắn ngày, đêm cho vũ khí bộ binh; các loại thuốc phóng, thuốc nổ, ngòi, hỏa cụ, đạn dược; đóng các tàu quân sự cỡ nhỏ đa năng, cao tốc cho lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng... phù hợp điều kiện và yêu cầu tác chiến của Việt Nam.
Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn, Giám đốc Viện Khoa học và Công nghệ quân sự (KH và CNQS) - Bộ Quốc phòng cho biết: Là cơ sở nghiên cứu khoa học lớn, đa ngành của Quân đội, thời gian qua, Viện đã thường xuyên bám sát thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu (SSCÐ) của toàn quân, tổ chức nghiên cứu thành công, ứng dụng hàng trăm đề tài, dự án. Tham gia có hiệu quả vào một số chương trình, dự án lớn về CNQP của Nhà nước và Bộ Quốc phòng, như: nghiên cứu, chế tạo tên lửa, cải tiến pháo phòng không tầm thấp, tên lửa chống tăng; nhiệm vụ khai thác làm chủ vũ khí, thiết bị công nghệ cao. Trong đó, Cụm công trình: nghiên cứu, thiết kế, chế tạo hệ thống SCADA đặc thù, diện rộng hoạt động trong điều kiện môi trường khắc nghiệt và xây dựng hệ thống pháo 37 mm-2N tác chiến ngày và đêm đã được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Bất cập trong nghiên cứu KHCN quân sự
Những năm gần đây, ngân sách nhà nước đầu tư cho nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, cải tiến và khai thác làm chủ các loại VKTBKT mới ngày càng được tăng cường. Chế độ, chính sách đối với đội ngũ những người làm công tác KHCN cũng được hoàn thiện, đồng bộ hơn. Tuy nhiên, trong triển khai thực hiện vẫn còn những khó khăn, bất cập, đó là: Hiện nay, nguồn nhân lực khoa học, kỹ thuật trong CNQP ở nước ta tuy có gia tăng về số lượng, nhưng chất lượng còn có mặt hạn chế; còn thiếu những kỹ sư giỏi, chuyên gia đầu ngành và chưa có các tổng công trình sư trong lĩnh vực vũ khí công nghệ cao (VKCNC)... Bên cạnh đó, hàng chục năm nay, các nhà máy CNQP đã chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, nhưng các viện nghiên cứu CNQP vẫn đang thực hiện cơ chế dự toán. Bộ Quốc phòng thí điểm chuyển một số viện sang mô hình doanh nghiệp KHCN được thực hiện đầu tiên trong Tổng cục CNQP, nhưng do còn thiếu các khuôn khổ pháp lý cần thiết cho nên tiến độ còn chậm. Ðến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn việc áp dụng Luật Sở hữu trí tuệ vào lĩnh vực nghiên cứu thiết kế các sản phẩm quân sự, cũng như các sản phẩm lưỡng dụng; cơ chế huy động KHCN dân sinh phục vụ CNQP vẫn còn những bất cập. Trong khi đó, muốn làm chủ được vũ khí công nghệ cao, vũ khí tích hợp hệ thống cần phải đẩy mạnh sự phân công chuyên môn sâu rộng hơn, ít nhất là để lĩnh vực nghiên cứu thiết kế chế tạo vũ khí hội nhập KHCN dân sinh một cách hiệu quả như mô hình quân dân y kết hợp trong ngành y tế. Bên cạnh đó, công tác quản lý tài chính của các đề án, dự án, đề tài KHCN, quy định về chế độ chi tiêu tài chính, hóa đơn, chứng từ và tiến độ cấp kinh phí còn chưa đồng bộ, linh hoạt, liên thông, làm ảnh hưởng tới hiệu quả và tiến độ của nhiều đề tài KHCN. Luật Khoa học và Công nghệ đã được ban hành, song việc cụ thể hóa Luật để ban hành cơ chế quản lý quyền sở hữu, quyền tác giả, sử dụng kết quả nghiên cứu trong Quân đội còn những bất cập. Việc phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Quân đội còn hạn chế; năng lực chất xám, tiềm lực quốc gia và việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội gặp không ít khó khăn thách thức.
Ðáng chú ý là cơ chế chính sách hiện còn đồng đều giữa những đề tài có sản phẩm được đưa vào sử dụng trong các lực lượng vũ trang và các đề tài "nghiệm thu xong rồi cất vào tủ". Việc áp dụng Luật Sở hữu trí tuệ vào lĩnh vực KHCN quân sự là cần thiết và cấp bách để đổi mới cơ chế, tạo động lực cho việc ứng dụng vào thực tiễn và chuyển giao các kết quả nghiên cứu VKTBKT. Mặc dù Bộ Quốc phòng và Bộ Khoa học và Công nghệ đã sớm thống nhất về vấn đề này, nhưng hiện nay vẫn còn vướng mắc về: vấn đề bảo mật quân sự; việc xác định giá thành các sản phẩm nghiên cứu quân sự; quyền tác giả của cá nhân, tổ chức... Hơn nữa, khi triển khai thực hiện nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ, ngành liên quan còn nhiều bất cập. Ðại tá, TS Nguyễn Trung Kiên, Viện trưởng Viện Tự động hóa kỹ thuật quân sự (Viện KH và CNQS) cho biết, thời gian qua đã thực hiện thông tư, hướng dẫn của cấp trên về quản lý tài chính các đề tài khoa học theo hướng khoán chi. Song muốn chi cho cán bộ nghiên cứu phải tiến hành bằng cách tính công theo bảng chấm công hằng ngày; nếu cán bộ làm ngoài giờ hành chính sẽ không được tính công… Với cách tính công kể trên sẽ không khuyến khích được đội ngũ cán bộ khoa học trong Quân đội phát huy khả năng sáng tạo, tâm huyết với công việc.
Ðề cập vấn đề này, Ðại tá Dương Nhật Dân, Bí thư Ðảng ủy, Phó Giám đốc Viện KH và CN quân sự cho rằng, những năm qua, cơ chế tài chính chưa thật sự "cởi trói" cho đội ngũ những người hoạt động trong lĩnh vực KHCNQS. Ðồng thời, chưa có kế hoạch, định hướng, sản phẩm mục tiêu rõ ràng trong ngắn hạn, trung hạn cũng như dài hạn…
Cần chính sách đãi ngộ đặc thù phù hợp
Trước yêu cầu mới về hiện đại hóa VKTBKT và thách thức của cuộc cách mạng 4.0, để nâng cao chất lượng hoạt động KH và CNQS, thời gian tới, Ðảng, Nhà nước, Quân ủy T.Ư, Bộ Quốc phòng cần tiếp tục đổi mới chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học trong Quân đội cho phù hợp thực tế. Thiếu tướng, PGS, TS Ðoàn Hùng Minh cho rằng: Hiện nay, chế độ đãi ngộ cán bộ khoa học vẫn còn dàn trải, đồng đều cho cả đội ngũ, thiên về số đông và thiếu những công cụ đặc biệt cho số ít tinh hoa là cán bộ có trình độ cao như: Các chủ nhiệm công trình, dự án, đề tài khoa học; các chuyên gia đầu ngành về công nghệ cao… Do vậy, cần có chính sách đãi ngộ đặc thù riêng cho những người đảm đương vai trò thủ lĩnh dẫn hướng cho các tập thể khoa học thực hiện thành công những nhiệm vụ KHCN mang tính đột phá, mũi nhọn và đỉnh cao. Ðồng thời, cần bổ sung các quy định mang tính đặc thù song hành với cơ chế khoán chi theo công việc, hoặc sản phẩm nghiên cứu để tăng cường trách nhiệm chủ động cho các ban chủ nhiệm đề tài, đề án KHCN để họ yên tâm tập trung trí tuệ cho công việc sáng tạo khoa học. Ðể trọng dụng nhân tài, việc tôn vinh, quan tâm động viên, khen thưởng như thực tế thời gian qua là chưa đủ, mà cốt lõi là người quản lý KHCN cần phải tin cậy và giao nhiệm vụ xứng tầm, có định hướng chiến lược dài hạn để các nhà khoa học tâm huyết, gắn bó lâu dài với sự nghiệp CNQP; bảo đảm điều kiện, phương tiện nghiên cứu và cơ hội trải nghiệm thực tiễn, tạo cơ hội cho các nhà khoa học được phát triển chuyên môn, cập nhật thông tin KHCN mới ở trong và ngoài nước. Dành nguồn lực ổn định, dài hạn cho các chương trình, dự án, đề tài…, từ nghiên cứu thăm dò cho tới khi tạo ra sản phẩm cuối cùng ứng dụng trong thực tiễn. Cần có chính sách ưu đãi phù hợp quyền tác giả đối với các đề tài được đưa vào sản xuất, chế tạo.
"Thời gian tới, cần tiếp tục đầu tư phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học một cách toàn diện; tuy nhiên với quan điểm "người trước súng sau" thì cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học. Tập trung nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ chuyên gia, cán bộ khoa học giỏi ở các nước có trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự tiên tiến; thực hiện đào tạo theo đơn đặt hàng phù hợp nhu cầu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo VKTBKT trong Quân đội; tăng cường cử cán bộ đi thực tập sinh tại các cơ sở nghiên cứu, sản xuất VKTBKT ở các nước tiên tiến để học hỏi, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm", Thượng tá Vũ Văn Huyên, Chính trị viên Viện Vũ khí (Tổng cục CNQP) chia sẻ.
Cùng với đó, cần có cơ chế, chính sách nhằm phát huy tối đa hiệu quả lưỡng dụng trong phát triển KHCN để đáp ứng đồng thời các yêu cầu của quốc phòng - an ninh và CNH, HÐH đất nước, nhất là gắn kết CNQP với công nghiệp quốc gia trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, phát huy thế mạnh của CNQP trong các lĩnh vực công nghệ lưỡng dụng như: công nghệ cơ khí chính xác và hóa nổ, công nghệ điện tử, vệ tinh - viễn thông, tin học, công nghệ tự động hóa, vật liệu siêu nhẹ, công nghệ laser…