Theo báo cáo mới công bố của Trung tâm Theo dõi buôn bán vũ khí, Mỹ đã tăng cường bán vũ khí cho một số nước “không dân chủ và hà khắc nhất thế giới” kể từ sau vụ khủng bố 11-9-2001. Vũ khí Mỹ được sử dụng trong hầu hết các cuộc xung đột trên thế giới.
Bản báo cáo của Trung tâm thuộc Viện chính sách thế giới có trụ sở tại New York cho biết, Mỹ coi các khoản gia tăng tài trợ quân sự và bán vũ khí là phần thưởng dành cho các nước đã tham gia vào “cuộc chiến chống khủng bố” do Nhà Trắng phát động hoặc ủng hộ Mỹ trong các cuộc chiến tranh chống Iraq và Afghanistan.
Theo báo cáo, phần lớn lượng vũ khí bán ra của Mỹ cho các nước đang phát triển đã tới các nước mà chính Bộ Ngoại giao Mỹ cho là “không có dân chủ”. Các vũ khí do Mỹ cung cấp đã được sử dụng trong hầu hết các cuộc xung đột trên thế giới, trong đó có các cuộc xung đột tại Angola, Chad, Ethiopia, Colombia, Pakistan, Israel và Philippines.
Bản báo cáo trích dẫn quyết định gần đây của chính quyền George W. Bush cung cấp máy bay chiến đấu F-16 mới cho Pakistan, trong khi cam kết cung cấp các thiết bị quân sự công nghệ cao cho Ấn Độ - theo cách này, Mỹ đã cung cấp vũ khí cho cả hai đối thủ cạnh trạnh nhau về vũ khí hạt nhân và có mâu thuẫn vốn tích tụ từ lâu.
Bản cáo cáo cho rằng “Việc Mỹ chuyển lượng vũ khí trị giá hàng chục triệu USD vào Uzbekistan – nơi gần đây có nhiều người đã thiệt mạng trong các cuộc biểu tình bạo loạn, là một minh chứng cho những hậu quả của việc cung cấp vũ khí cho những chế độ hà khắc”.
Bản báo cáo cho biết, các quốc gia được coi là “không có nền dân chủ” theo báo cáo hàng năm về nhân quyền của Bộ Ngoại giao Mỹ cũng lại là những nước được nhận nhiều vũ khí và viện trợ quân sự của Mỹ. Trong số những nước này có A-rập Xê-út (1,1 tỷ USD năm 2003), Ai Cập (1 tỷ USD), Kuwait (153 triệu USD), Các Tiểu vương quốc A-rập thống nhất (110 triệu USD) và Uzbekistan (33 triệu USD).
Ông Frida Berrigan, đồng tác giả của bản báo cáo nghiên cứu có tiêu để “Vũ khí Mỹ trong cuộc chiến 2005: Thúc đẩy tự do hay gia tăng xung đột” nói: “Việc cung cấp vũ khí cho những chế độ hà khắc trong khi lại tuyên bố phát động một chiến dịch chống chuyên chế đang làm xói mòn độ tín nhiệm của Mỹ và khiến Mỹ khó khăn hơn trong việc ép buộc các nước khác phải tuân thủ các tiêu chuẩn cao về đạo đức và nhân quyền...”.
Kinh phí thực hiện Chương trình viện trợ quân sự lớn nhất của Mỹ mang tên Tài trợ quân sự nước ngoài (FMF) – đã tăng khoảng 68% từ năm 2001 đến 2003, từ mức 3,5 tỷ USD lên mức gần 6 tỷ USD. Theo FMF, những nước tiếp nhận vũ khí của Mỹ được nhận khoản tài trợ trọn gói với điều kiện là những khoản tài trợ này chỉ được sử dụng để mua vũ khí của Mỹ, qua đó khoản tiền này đã được tái đầu tư vào ngành quốc phòng nhiều tỷ USD của Mỹ.
Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, chỉ có hai nước được miễn áp dụng điều kiện này là Israel và Ai Cập, những đồng minh thân cận của Mỹ được phép sử dụng khoản tài trợ thuộc FMF để mua vũ khí từ các cơ sở sản xuất vũ khí trong chính nước họ.
Các khoản tài trợ gia tăng lớn nhất của FMF được dành cho các nước mà Mỹ coi là đồng minh trong cuộc chiến chống Iraq và Afghanistan. Trong số những nước này có Jordan (tăng viện trợ 525 triệu USD từ năm 2001 đến 2003), Afghanistan (tăng 191 triệu USD), Pakistan (tăng 224 triệu USD), và Bahrain (tăng 90 triệu USD). Tất cả các khoản tăng này, cả về bán vũ khí và tài trợ thuộc FMF, đều được cung cấp sau cuộc tấn công khủng bố 11-9-2001 vào nước Mỹ.
Hơn 20 nước khác, trong đó có Afghanistan, Algeria, Pakistan, Uzbekistan và Uruguay, cũng trở thành những nước lần đầu tiên được nhận khoản tài trợ của FMF trong giai đoạn 2001 đến 2005 hoặc được khôi phục lại chương trình viện trợ này sau một thời gian dài tạm ngừng. Kết quả là, số nước được nhận tài rợ của FMF đã tăng từ 48 lên 71 trong giai đoạn tù 2001 đến 2005 - tăng 47,9%.
Bà Natalie J. Goldring, giám đốc điều hành của chương trình nghiên cứu an ninh thuộc Trường Ngoại giao, Đại học Georgetown có trụ sở tại Washington, cho rằng, chính quyền Bush đã không chứng minh được mối liên kết giữa việc cung cấp vũ khí không hạn chế với thành công trong cuộc chiến chống khủng bố.
Bà Goldring nói: “Bản báo cáo này cho thấy, qua việc bãi bỏ kiểm soát cung cấp vũ khí, có khả năng lớn hơn là chúng ta đã làm tăng nguy cơ những vũ khí này rơi vào tay những kẻ thù của mình”.
Bà nói, luật pháp Mỹ cấm chuyển giao vũ khí cho những nước có vi phạm nhân quyền một cách có hệ thống. Bà Goldring nhấn mạnh, việc thực thi quy định này sẽ nâng cao hiệu quả của chính sách chuyển giao vũ khí của Mỹ, nhưng chính quyền Bush lại không làm như vậy.
Theo bản báo cáo, khi có một thảm họa xảy ra trên thế giới, chẳng hạn như thảm họa sóng thần ở Ấn Độ Dương hôm 26-12-2004 cướp đi sinh mạng của hơn 300 nghìn người, các công dân Mỹ đã rất hào phóng quyên góp tiền giúp những nơi bị nạn khắc phục hậu quả. Và họ cũng nghĩ là chỉnh phủ cũng làm tương tự. Trong khi Mỹ tỏ ra “hào phóng” qua các khoản viện trợ nước ngoài trị giá hàng tỷ USD mỗi năm thì Washington hiện có khuynh hướng thích sử dụng các khoản viện trợ quân sự và bán vũ khí hơn các hình thức viện trợ khác như viện trợ phát triển, y tế..., cho dù những loại hình viện trợ nước ngoài này đã cho thấy mang lại hiệu quả trong dài hạn.
Bà Goldring nói: “Các nhà sản xuất vũ khí đang kiếm lời từ việc gia tăng các hợp đồng sản xuất vũ khí do Mỹ cung cấp. Nhưng những hợp đồng này sẽ khiến binh sĩ Mỹ hiện nay và trong tương lai có nguy cơ bị tấn công bằng chính những vũ khí của Mỹ khi chúng bị rơi vào tay kẻ xấu. Khi chuyển giao, chúng ta gần như không còn kiểm soát được đối với những vũ khí này”.
Trường Sơn
(Theo Thời báo châu Á)