Đó là một sự kiện buồn: Cách đây tròn 10 năm, ngày 2-7-1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á thảm khốc chính thức bắt đầu. Vào ngày đó, Thái-lan đã cạn kiệt các nguồn dự trữ ngoại hối trong nỗ lực bảo vệ đồng tiền của nước này, đồng baht, tránh bị tác động của một cuộc đầu cơ lớn. Thái-lan đã buộc phải thả nổi đồng baht và đồng tiền này đã ngay lập tức giảm giá mạnh. Phản ứng dây chuyền đã nhanh chóng lan rộng khi các nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các nước có những triệu chứng kinh tế tương tự, đặc biệt là Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc.
Hồng Công, Philippines, Singapore và Đài Loan cũng bị tác động bởi “vòng xoáy” này. Chưa khi nào trước đó thế giới lại chứng kiến một cuộc rút vốn ồ ạt đến như vậy, khiến nhiều thị trường tài chính và nhiều nền kinh tế sụp đổ. 10 năm qua, nhiều người tin rằng các nền kinh tế này đã hoàn toàn hổi phục. Nhưng những người khác lại cho rằng Đông Á có thể đang hướng tới một “cú sốc” tài chính khác.
Cuộc khủng hoảng năm 1997 khác với những cuộc khủng hoảng kinh tế trước đó. Không giống như tại Mỹ la-tinh, nơi hầu hết các cuộc khủng hoảng ở các thị trường mới nổi đã xảy ra, Đông Á được ca ngợi là có lạm phát thấp, ngân sách cân bằng và một kỷ lục về tăng trưởng kinh tế trung bình gần 8% trong ba thập kỷ. Điều này đã khiến cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 trở nên bất ngờ và gây ấn tượng hơn.
Tuy nhiên, nhìn lại, những yếu kém của châu Á cũng dễ nhận ra: sự kết hợp các hệ thống tài chính yếu kém, sự vội vã mở cửa các nền kinh tế cho dòng vốn nước ngoài và một chính sách gắn chặt đồng tiền của các nước này với đồng USD. Hy vọng các đồng tiền này sẽ vẫn “cố định” với đồng USD, các ngân hàng và các doanh nghiệp khác trong nước càng vay nhiều tiền USD với mức lãi suất thấp hơn lãi suất trong nước. Khi vốn nước ngoài đổ vào, những khoản vay này tăng mạnh, các giá trị tài sản và giá cổ phiếu cũng tăng.
Phần lớn số tiền giá rẻ này bị sử dụng lãng phí, khi các văn phòng có thanh thế và các căn hộ hạng sang mọc lên trên toàn khu vực châu Á. Khi đồng USD tăng giá trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến 1997, các đồng tiền của các nước Đông Á cũng tăng giá theo, khiến thâm hụt tài khoản vãng lai của các nước này tăng. Năm 1996, thâm hụt của Thái-lan bằng 8% GDP. Các nhà đầu tư khi đó nhận ra rằng đây là một yếu tố cho thấy kinh tế phát triển không bền vững, và họ đã thi nhau rút vốn khỏi Thái-lan khiến nguồn dự trữ ngoại hối của nước này giảm nhanh.
Ngay khi Thái-lan và các nước khác định giá lại đồng tiền bản địa, thì cuộc khủng hoảng tài chính đã tới gần chứ không còn chỉ đơn thuần là những vấn đề về tiền tệ. Việc phá giá đồng tiền bản địa đã khiến các khoản vay bằng ngoại tệ tăng vì phải bỏ ra nhiều đồng nội tệ hơn để mua ngoại tệ trả nợ, dẫn đến sự phá sản hàng loạt. Các công trình xây dựng trở nên hoang vắng và các cần trục khổng lồ ngừng hoạt động khi “bong bóng” bất động sản “nổ tung” và nợ xấu của các ngân hàng tăng mạnh. Những quy định và sự giám sát yếu kém đến lúc đó mới cảnh báo về những mất cân đối giữa tài sản có và các khoản nợ, và các ngân hàng bắt đầu mất khả năng hoạt động, lại khiến cho dòng vốn “đào tẩu” ồ ạt hơn.
Trong sự tuyệt vọng, Thái-lan thậm chí đã kêu gọi người dân ủng hộ đồ nữ trang bằng vàng của họ để giúp tăng nguồn dự trữ ngoại hối của các ngân hàng.
Trong số các nước bị khủng hoảng, đồng rupiah của Indonesia đã giảm giá mạnh nhất, tới 86% so với đồng USD. Các đồng tiền của Thái-lan, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines đều giảm khoảng 40-60%. Các thị trường chứng khoán của các nước này đều bị giảm giá ít nhất 75% tính theo USD. Thái-lan, Indonesia và Hàn Quốc buộc phải cầu xin Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) giúp đỡ.
Năm 1998, Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái-lan đã chứng kiến GDP tính bình quân cho mỗi người dân sau khi đã loại bỏ yếu tố lạm phát, giảm trung bình 11%. Hàng triệu người bị mất việc làm. Thái-lan và Indonesia, hai nước bị thiệt hại lớn nhất, đã phải gánh chịu sự sụt giảm GDP trong thời gian từ năm 1997 đến 2002 là khoảng 35% so với sản lượng tiềm năng của những nước này (tức là giả định rằng tăng trưởng đạt tốc độ như trước đó), bằng mức sụt giảm sản lượng của Mỹ trong cuộc Đại khủng hoảng của nước này vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước.
Một số chuyên gia nước ngoài đã nhanh chóng, hay đúng ra là quá nhanh tuyên bố rằng “câu chuyện thần kỳ” kinh tế châu Á đã kết thúc. Họ cho rằng, sự tăng trưởng nhanh trước đó ở châu Á là sự tăng trưởng “giả tạo” dựa trên việc chính phủ các nước này rót vốn giá rẻ nói trên vào những công ty họ ưa thích. Cho vay quá mức và đầu tư quá mức đã thúc đẩy tăng trưởng một cách giả tạo. Những người bi quan dự đoán rằng sẽ có một thập kỷ giảm sút tăng trưởng ở châu Á, như ở Mỹ la-tinh sau cuộc khủng hoảng nợ vào những năm 80 của thế kỷ trước. Một người hết sức hoài nghi về “phép màu” châu Á là ông Paul Krugman, người từng lập luận trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 rằng sự tăng trưởng của châu Á là kết quả của “sự đổ mồ hôi chứ không phải là trí tuệ” dựa trên việc tăng vốn và lao động chứ không phải là tăng năng suất, và do đó sẽ là không bền vững.
Nhưng sự sụt giảm mạnh tăng trưởng này là do dư thừa về vốn, chứ không phải là năng suất tăng thấp. Trên thực tế, hầu hết những ước tính cho thấy tăng năng suất tại Đông Á lúc đó cao hơn nhiều so với các nền kinh tế đang nổi hoặc kém phát triển khác. Sự thật là tăng trưởng mạnh đã che đậy sự đầu tư lãng phí, việc kiểm soát hoạt động ngân hàng chưa tốt, và nạn tham nhũng, nhưng những thành phần chính của tăng trưởng kinh tế - tỷ lệ tiết kiệm cao cho đầu tư tài chính và các thị trưởng mở - vẫn còn.
Đây là một lý do cho thấy tại sao hầu hết các nền kinh tế Đông Á đã hồi phục nhanh hơn dự kiến. Các khoản tiền hỗ trợ của IMF cũng giúp khôi phục lòng tin, được củng cố bằng những cải cách để cơ cấu lại và tăng hiệu quả hoạt động ngân hàng. Đến năm 2000, thu nhập bình quân đầu người đã trở lại mức trước khủng hoảng tại Hàn Quốc và Malaysia; còn tại Thái-lan và Indonesia thì phải lần lượt đến tận các năm 2003 và 2004.
Châu Á được ca tụng quá lời?
Mười năm sau, các thị trường tài chính châu Á đang phát triển mạnh trở lại và sự tăng trưởng của khu vực này một lần nữa lại là “sự thèm muốn” của các nước và khu vực còn lại trên thế giới. Trong ba năm qua, châu Á đang trỗi dậy đã tăng trưởng trung bình hàng năm 8%, bằng mức trước khi xảy ra khủng hoảng. Vì vậy, dường như có thể đã có sự hồi phục hoàn toàn. Một số nhà bình luận kinh tế cho rằng, nhờ tất cả cải cách và việc cơ cấu lại đó, các nước bị thiệt hại trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 hiện năng động và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, một số khác lại lo ngại rằng một cuộc khủng hoảng khác đang hình thành. Ai đúng?
Những người đánh giá cao sự phát triển của khu vực châu Á hiện nay bị coi là quá lạc quan. Mức tăng trưởng trung bình 8% của khu vực này trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước đang tăng trưởng nhanh nhất và cũng có nền kinh tế lớn hơn rất nhiều so với những gì họ có 10 năm trước đây. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ước tính rằng trong năm nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng nhất trong hai năm 1997-1998, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của những nước này từ năm 2000 đã giảm 2,5 điểm so với giai đoạn 1990-1996, xuống còn trung bình chỉ hơn 5%.
Nguyên nhân chính đó là đầu tư chưa hồi phục. Năm ngoái, chi tiêu cho đầu tư chỉ chiếm trung bình 24% GDP trong các nền kinh tế này, giảm so với 35% vào năm 1995 (xem biểu đồ 1). Con số này thấp hơn so với tỷ lệ đầu tư hơn 40% ở Trung Quốc và cao hơn một chút so với ở nhiều nền kinh tế giàu có, nơi mà các cơ hội đầu tư thấp hơn nhiều. Trước khủng hoảng, đầu tư có thể là quá cao, tuy nhiên hiện nay lại quá thấp.
Cơ sở hạ tầng công cộng, đặc biệt ở Thái-lan và Indonesia, tồi tệ hơn nhiều so với 10 năm trước và việc đầu tư kinh doanh bị tổn thất do sự bất ổn về kinh tế và chính trị. Do bị thua thiệt nhiều nên các công ty thận trọng trong việc vay nợ. ADB cho rằng chính phủ các nước này có thể làm nhiều điều để thay đổi tình hình này: từ việc đầu tư nhiều hơn vào giáo dục và cơ sở hạ tầng, đến chống tham nhũng và cải thiện môi trường đầu tư. Trái với tất cả những lời tán dương là đã có sự thay đổi đậm nét tại châu Á, sự thật là công cuộc cải cách ở khu vực này còn khá hạn chế ngoài lĩnh vực tài chính.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng chất lượng quản lý của chính quyền là quan trọng đối với đầu tư và tăng trưởng. Và đáng buồn là một số khía cạnh của công tác quản lý này tại Đông Á lại kém đi. ADB sử dụng số liệu do Ngân hàng Thế giới thu thập để đánh giá so sánh Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái-lan với các nước còn lại trên thế giới dựa trên sáu tiêu chuẩn quản lý: trách nhiệm giải trình, ổn định chính trị, hiệu quả của chính quyền, chất lượng điều tiết, nguyên tắc nhà nước pháp quyền và kiểm soát tham nhũng. So sánh năm 2005 với 1996, điểm của Đông Á kém đi trong 22 trên tổng số 30 so sánh (đó là sáu tiêu chuẩn cho năm nước). Nếu so sánh theo hạng mức quốc tế, thì điểm của các nước này kém hơn ở 28 trong số 30 đề mục so sánh. Chỉ có Hàn Quốc có điểm quản lý tăng trên hơn một nửa số tiêu chuẩn nói trên.
Thậm chí trong lĩnh vực tài chính cũng còn nhiều việc phải làm. Các ngân hàng vững vàng hơn nhờ có các tiêu chuẩn giám sát và kiểm soát nội bộ tốt hơn. Tỷ lệ vốn đầu tư đã tăng và nợ xấu đã giảm mạnh: ở Thái-lan giảm từ 43% năm 1998 xuống còn 8% vào năm ngoái. Tuy nhiên, sự lành mạnh hơn của bảng cân đối kế toán của các ngân hàng một phần nhờ có các điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi, như ông Philip Turner thuộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đã chỉ ra. Tăng trưởng mạnh và lãi suất thực rất thấp đã giúp tăng lợi nhuận của các ngân hàng. Song việc quản lý rủi ro vẫn còn yếu kém ở một số nước. Các thị trường vốn, là một nơi cung cấp nguồn vốn ngoài ngân hàng, vẫn kém phát triển.
Tuy nhiên, xét về khả năng bị tác động từ bên ngoài, những người lạc quan đã đúng khi nói rằng châu Á đang mạnh hơn và vững vàng hơn. Khu vực này hiện nay ít bị “tổn thương” hơn trước một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán so với cách đây 10 năm, khi tất cả các nước bị ảnh hưởng của khủng hoảng lúc đó có thâm hụt tài khoản vãng lai lớn. Giờ đây, các nước này đều có thặng dư tài khoản vãng lai, và nợ nước ngoài thấp hơn nhiều. Họ cũng có nguồn ngoại tệ lớn để bảo vệ mình trước tác động của bất cứ cuộc đầu cơ nào trong tương lai. Thực tế đã cho thấy, một quốc gia nên có đủ dự trữ ngoại tệ để thanh toán nợ nước ngoài ngắn hạn của quốc gia đó. Trước cuộc khủng hoảng vào tháng 6-1997, dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc chỉ bằng một phần ba nợ ngắn hạn của nước này, giờ đây lượng dự trữ ngoại tệ của nước này đã tăng gấp hai lần. Tại hầu hết các nước khác bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, lượng dự trữ ngoại tệ đến nay cũng đã lớn hơn gấp hai hoặc ba lần.
Một số nhà kinh tế, trong đó có ông Nouriel Roubini thuộc tổ chức Roubini Global Economics cho rằng, những nguồn dự trữ ngoại tệ lớn này có nghĩa là khó có khả năng lặp lại cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 ở khu vực châu Á. Tuy nhiên, họ cũng cho rằng chính việc tăng dự trữ ngoại tệ lại đang tạo ra những rủi ro mới. Ông Roubini nói, các nhà hoạch định chính sách Đông Á đã không rút ra được bài học quan trọng nhất từ cuộc khủng hoảng này. Tỷ giá hối đoái tại những nước này lại một lần nữa được gắn chặt với đồng USD. Theo ông Roubini, những rủi ro này đang tạo ra một cuộc khủng hoảng tài chính mới nhưng khác với cuộc khủng hoảng năm 1997 – không phải là “cú sốc” về cân bằng cán cân thanh toán như lần trước, mà là sự bùng nổ và phá sản trên các thị trường tài sản.
Khi chính phủ các nước châu Á đang cố giữ giá rẻ đối với đồng nội tệ, tổng dự trữ ngoại tệ của khu vực này đã tăng từ 250 tỷ USD vào năm 1997 lên mức 2.500 tỷ USD vào năm nay. Nhu cầu tăng dự trữ ngoại tệ là có thể hiểu được, nhưng nguồn dự trữ ngoại tệ của các nước này hiện nay là quá mức. Ông Roubini cho rằng, chính sách gắn chặt đồng nội tệ với đồng USD của các nền kinh tế châu Á và tăng nhanh dự trữ ngoại tệ đang dẫn tới tăng trưởng quá mức lượng tiền và tín dụng, các sức ép lạm phát và “các bong bóng” tài sản trên các thị trường chứng khoán và nhà cửa. Ông Roubini kết luận, điều này cuối cùng sẽ dẫn tới những “tổn thương” tương tự như những dòng vốn nước ngoài lớn đổ vào trong nước, bùng nổ tín dụng, tình trạng “quá nóng” và “các bong bóng” mà đã xuất hiện trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997.
Dự đoán ảm đạm này của ông Roubini dựa trên “ba yếu tố không thể”: một nền kinh tế không thể kiểm soát khả năng thanh khoản trong nước và quản lý tỷ giá hối đoái của nó nếu tài khoản vốn của nền kinh tế này để ngỏ. Nếu nền kinh tế “cố định” đồng nội tệ, các dòng ngoại tệ đổ vào sẽ tạo áp lực tăng lượng tiền. Ngân hàng Trung ương có thể tìm cách vô hiệu hóa ảnh hưởng của việc tăng nguồn dự trữ ngoại hối bằng cách bán chứng khoán để thu về lượng tiền mặt dư thừa. Nhưng lại xuất hiện một khó khăn, đó là việc bán trái phiếu sẽ có xu hướng làm tăng lãi suất và do vậy lại thu hút thêm các dòng vốn. Ông Roubini cho rằng, khả năng các ngân hàng trung ương châu Á vô hiệu hóa thành công dòng vốn đổ vào là hết sức có giới hạn và do vậy dự trữ ngoại hối tăng thậm chí có nghĩa là lượng tiền mặt dư thừa sẽ tăng.
Sự khác biệt lớn
Tuy nhiên, những nền kinh tế này có khả năng áp dụng những chính sách hiện nay trong một thời gian dài hơn so với dự kiến của ông Roubini. Đó là vì nhiều đặc điểm kinh tế mà ông Roubini đã miêu tả - như tỷ giá hối đoái cố định, thặng dư lớn về tài khoản vãng lai và “các bong bóng” giá tài sản – là đúng khi áp dụng đối với Trung Quốc, nhưng không phải với hầu hết các nền kinh tế nhỏ hơn ở Đông Á.
Trước hết là, các nước bị thiệt hại chính trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đã để đồng nội tệ của họ tăng giá so với đồng USD nhiều hơn nhiều so với mức tăng mà Trung Quốc đã áp dụng. Chỉ có nền kinh tế Hồng Công vẫn cố định đồng nội tệ với USD. Đồng won của Hàn Quốc đã tăng giá 42% kể từ năm 2002 so với USD và đồng bath của Thái-lan đã tăng 28%. Trong tổng mức tăng nguồn dự trữ ngoại hối của châu Á, Trung Quốc chiếm phần lớn. Từ tháng 12-2004 đến nay, tổng dự trữ ngoại hối của Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái-lan chỉ tăng thêm một phần ba, trong khi đó tổng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã tăng gấp đôi.
Thứ hai, lập luận chung cho rằng những nền kinh tế này có thặng dư tài khoản vãng lai lớn, các đồng nội tệ của họ đang bị định giá thấp, là quá cường điệu. Trung Quốc có thặng dư tài khoản vãng lai lớn, nhưng trong số những nước bị khủng hoảng tài chính năm 1997, chỉ có Thái-lan có thặng dư tài khoản vãng lai lớn (bằng 11% GDP). Hàn Quốc, Thái-lan và Indonesia có mức thặng dư trung bình chưa đầy 1% GDP (xem biểu đồ 2). Trên thực tế, hãng Morgan Stanley cho rằng đồng nội tệ của những nước này hiện đang được định giá quá cao so với đồng USD.
Thứ ba, tại hầu hết các nước việc tăng dự trữ ngoại tệ không làm tăng mạnh mức tăng lượng tiền và lạm phát. Lượng cung tiền hiện nay tại các nền kinh tế bị khủng hoảng tài chính năm 1997 chỉ tăng trung bình hơn 10% so với năm trước, thấp hơn nhiều mức tăng 17% của Trung Quốc và mức tăng hơn 20% của chính các nước này vào giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Lạm phát cũng vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Trong báo cáo Viễn cảnh Kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương, IMF nhận định hầu hết các nền kinh tế đang nổi ở châu Á không gần kề tình trạng “quá nóng”. IMF cho rằng hầu như không có bằng chứng về “những bong bóng” nhà cửa tại hầu hết các nước châu Á: giá nhà trung bình không tăng nhiều so với thu nhập trong những năm gần đây. Giá cổ phiếu tại các nước này đã tăng mạnh, nhưng sự tăng lên này xảy ra sau khi có sự sụt giảm mạnh. Không tính đến Trung Quốc, chỉ số PE (giá/thu nhập) trung bình của các cổ phiếu ở các nền kinh tế châu Á vẫn thấp hơn so với tại các nước phát triển.
Các dòng ngoại hối đổ vào các nền kinh tế châu Á hiện không làm cho lượng tiền và tín dụng tăng mạnh một phần là vì các ngân hàng trung ương đã vô hiệu hóa tương đối thành công tác động tiêu cực của các dòng ngoại hối này. Một sự khác nhau quan trọng giữa tình hình hiện nay và những năm gần cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đó là sức ép tăng lên đối với đồng nội tệ và việc tăng dự trữ ngoại tệ gần như hoàn toàn phản ánh thặng dư tài khoản vãng lai và đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào, chứ không phải là dòng tiền đầu cơ đổ vào. Theo ông David Carbon thuộc DBS, một ngân hàng Singapore, các dòng vốn ròng chảy vào các nền kinh tế bị khủng hoảng tài chính năm 1997 trung bình chỉ bằng 0,5% GDP kể từ năm 2004, so với 6,5% trong thời gian từ năm 1991 đến 1996.
Chỉ riêng Thái-lan mới có lượng vốn ròng chảy vào lớn và năm ngoái nước này đã gặp rắc rối. Lạm phát bắt đầu tăng, dẫn tới việc ngân hàng trung ương nước này tăng lãi suất. Tuy nhiên, điều này lại làm tăng thêm lượng vốn chảy vào nền kinh tế Thái-lan và làm tăng tỷ giá hối đoái. Tháng 12 vừa qua, để ngăn chặn sự tăng giá của đồng baht và lấy lại sự kiểm soát khả năng thanh khoản, chính phủ Thái-lan đã đưa ra một biện pháp tùy tiện, đó là yêu cầu các ngân hàng trong nước phong tỏa tối thiểu 30% trị giá các tài khoản tiền gửi ngoại tệ được lập để đầu tư tài chính. Việc phong tỏa này có hiệu lực trong vòng một năm. Nếu nhà đầu tư muốn rút trước hạn quy định, chỉ được giải ngân tối đa 2/3 khoản tiền bị giữ lại đồng thời chịu phạt 10% tổng số tiền gửi ban đầu. Hậu quả là, thị trường chứng khoán nước này đã sụt giảm mạnh.
Tuy nhiên, tại hầu hết các nền kinh tế nhỏ khác ở châu Á, các ngân hàng trung ương chưa bị “ngập” bởi dòng vốn ngắn hạn đổ vào. Điều này giải thích tại sao các nước này có khả năng vô hiệu hóa được tác động của lượng lớn dự trữ ngoại tệ mà không gây ra việc thu hút thêm lượng vốn đổ vào.
Các nền kinh tế bị thiệt hại nặng nhất trong cuộc khủng hoảng năm 1997 chưa hồi phục hoàn toàn: mức tăng trưởng của các nền kinh tế này vẫn thấp hơn mức trước năm 1997. Họ cũng không bị “ngập” bởi sự dưa thừa tiền mặt hay có nguy cơ lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính khác.
Một sự thay đổi lớn trong thập kỷ qua là sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc kinh tế. Trung Quốc “đã lấy mất” một phần giá trị xuất khẩu của các nền kinh tế khác, nhưng Trung Quốc cũng nhập khẩu lượng lớn thiết bị và linh kiện từ các nước trong khu vực này. Nhu cầu nguyên vật liệu thô của Trung Quốc cũng đã làm tăng giá hàng hóa, tạo điều kiện cho một số nhà sản xuất ở Đông Nam Á thu lợi. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc bằng 22% tổng giá trị xuất khẩu của các nước còn lại ở châu Á, so với 13% vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước. Các nước Đông Á nhỏ hơn đã bị giảm bớt thị phần thương mại toàn cầu của họ khi thị phần của Trung Quốc tăng, nhưng giá trị xuất khẩu của những nước này tiếp tục tăng nhanh. Vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Đông Nam Á giảm, gây lo ngại rằng Trung Quốc đang hút hết các khoản đầu tư. Tuy nhiên, trong vài năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Đông Á đã hồi phục mạnh. Tuy nhiên, nhìn chung, mức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ tăng nhanh hơn so với mức đầu tư vào các nước còn lại ở châu Á.
Sự lo ngại về thua kém trong cạnh tranh với Trung Quốc là một yếu tố lớn dẫn tới sự do dự của các nước còn lại ở châu Á trong việc để đồng nội tệ của những nước này tiếp tục tăng giá so với USD. Nếu Trung Quốc để đồng nhân dân tệ tăng giá thì các nước này sẽ không cần can thiệp nhiều để giữ đồng nội tệ không tăng giá nhanh.
Những bài học sai lầm
Liệu Trung Quốc có thể là một nguồn khủng hoảng tài chính tiếp theo? Trung Quốc bị tác động ít trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998, nhờ kiểm soát vốn nghiêm ngặt. Thực ra, với việc không phá giá đồng nội tệ, nước này đã giúp không để cuộc khủng hoảng tài chính này trở nên tồi tệ hơn. Nhưng Trung Quốc có thể đã rút ra những bài học sai lầm – đó là sự cần thiết giữ tỷ giá hối đoái cố định và tăng nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ. Chính sách tiền tệ của Trung Quốc đã quá lỏng lẻo và lãi suất tiền gửi ngân hàng thấp đã thúc đẩy các nhà đầu tư đổ tiền vào thị trường chứng khoán nước này. Do vậy, những cảnh báo nói trên của ông Roubini là đúng đối với Trung Quốc.
Nếu “bong bóng” giá cổ phiếu của Trung Quốc “nổ tung”, thì những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế tại Trung Quốc – và các nước láng giềng của Trung Quốc – có thể chỉ nhẹ thôi bởi vì quyền sở hữu cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc là tương đối thấp và lượng cổ phiếu mà các công ty Trung Quốc sở hữu trên các thị trường chứng khoán nước ngoài không nhiều. Các nhà đầu tư lo ngại có thể rút tiền ra khỏi các thị trường chứng khoán khác ở châu Á, nhưng nguồn dự trữ ngoại hối lớn tại các nước này sẽ ngăn chặn được nguy cơ rút vốn ồ ạt.
Thay vì tự bảo vệ bằng những nguồn dự trữ ngoại hối lớn, chinh phủ các nước Đông Á nên làm cho nền kinh tế của họ linh hoạt hơn và các ngân hàng của họ vững vàng hơn, và do vậy có khả năng đối phó tốt hơn với biến động trong tương lai. Họ cần có cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn, qua đó sẽ không chỉ ngăn chặn việc tăng thêm quá mức nguồn dự trữ ngoại hối, mà còn giúp chuyển hướng tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu dựa trên xuất khẩu sang chủ yếu dựa trên đáp ứng nhu cầu trong nước. Chính phủ các nước này cũng nên khôi phục lòng tin của giới kinh doanh và tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh hơn. Châu Á đã làm tốt hơn những gì mà hầu hết mọi người kỳ vọng cách đây 10 năm. Nhưng khu vực này đáng lẽ vẫn có thể làm tốt hơn nữa.
Trường Sơn
Theo Tạp chí Anh Nhà kinh tế