Một số dạng tiêu chảy cấp tính và cách xử lý

Tiêu chảy do nhiễm khuẩn, nhiễm độc từ thức ăn

Thường gặp nhất là bệnh do ăn phải thức ăn chứa vi khuẩn có khả năng đột nhập vào niêm mạc ruột và gây bệnh như Salmonella (S.typhi murium và S.enteritidis).

Thời gian ủ bệnh trung bình 12-36 giờ sau ăn.

Bệnh khởi phát đột ngột: sốt, đau bụng vùng thượng vị hoặc quanh rốn, không mót rặn, tiêu chảy nhiều lần, phân thối, nhiều nước đôi khi có nhày, máu, gần giống phân trong lỵ trực khuẩn.

Trường hợp nặng có rối loạn điện giải do mất nước (môi khô, mắt trũng, khát nước). Nếu không chẩn đoán và điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể tử vong do trụy mạch.

Ngoài ra bệnh còn có thể xuất hiện khi ăn phải thức ăn có chứa độc tố của vi khuẩn đã hình thành sẵn trong thức ăn và chính độc tố này gây bệnh (độc tố của tụ cầu vàng, Clostridium perfrigens, Clostridium botulinum, bacilluscerus và Vibrio parahaemolyticus).

Biểu hiện lâm sàng là tiêu chảy nhiều lần trong ngày, đau bụng, không sốt, buồn nôn và nôn. Nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tình trạng mất nước và tử vong.

Tiêu chảy dạng tả

Bệnh tả, do vi khuẩn Vibrio cholerae gây nên. Thời gian ủ bệnh trung bình 5 ngày. Triệu chứng thường gặp là đi ngoài nhiều lần trong ngày, phân lờ lờ như nước vo gạo, không đau bụng, không sốt, có thể tử vong nếu không được chẩn đoán và điều trị đúng. Bệnh dễ gây dịch.

E.Coli sinh độc tố ruột

Gây tăng tiết dịch và điện giải vào lòng ruột, không có viêm. Nguồn lây là thức ăn và nước. Thời gian ủ bệnh 24-72 giờ, có thể sốt nhẹ, phân nhiều nước. Ðây là thể bệnh tiêu chảy nhẹ nhưng kéo dài có khi đến 5 tuần.

Tiêu chảy với biểu hiện hội chứng lỵ

Lỵ trực khuẩn: Căn nguyên do Shigella gây ra. Triệu chứng là đau bụng quặn, mót rặn, đi ngoài lờ máu cá hay như nước rửa thịt, sốt. Cần điều trị sớm bằng kháng sinh đặc hiệu.

Tuy nhiên hiện nay trực khuẩn này đã kháng với nhiều loại kháng sinh nên cần lựa chọn loại thích hợp.

Escherichia coli (E.coli) gây tiêu chảy xâm nhập với hội chứng lỵ: đau quặn, mót rặn, phân lỏng có máu mũi...

Ðiều trị tiêu chảy cấp như thế nào?

Ðiều trị chủ yếu là bù nước và điện giải, trên nguyên tắc đánh giá đúng tình trạng mất nước:

Mất nước nhẹ: Bồi phụ nước bằng đường uống khi còn uống được, thường dùng oresol pha trong 1 lít nước. Nếu không có oresol thì dùng nước cháo muối.

Mất nước nặng: Biểu hiện mắt trũng, môi khô, da nhăn nheo. Khi lượng nước mất lớn hơn 5% trọng lượng cơ thể hoặc khi uống không có kết quả thì phải bù nước bằng truyền tĩnh mạch. Kháng sinh được chỉ định cho những bệnh nhân có dấu hiệu tiêu chảy xâm nhiễm (có bạch cầu trong phân). Tùy theo nguyên nhân mà sử dụng kháng sinh thích hợp. Tuy nhiên cần phải phân biệt với các trường hợp tiêu chảy do Enterovirus (hay gây dịch nhỏ khu trú và chủ yếu ở trẻ em).

Khi điều trị tiêu chảy, ngoài bù nước, điện giải và thuốc men còn cần chú ý đến chế độ dinh dưỡng thích hợp. Người bệnh bị tiêu chảy, khả năng tiêu hóa và hấp thu thức ăn kém do vậy thức ăn cần chế biến kỹ, nấu nhuyễn dễ tiêu hóa hợp khẩu vị, bảo đảm đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng. Không kiêng khem quá mức.

Các loại kháng sinh chống bệnh tiêu chảy

Cục Quản lý Dược Việt Nam cho biết: Cục đã  và đang yêu cầu các công  ty dược khẩn trương khai thác các nguồn hàng để sản xuất và nhập khẩu ngay dịch truyền và một số loại kháng sinh như Azithromycin, Cefotaxime, kháng sinh thuộc nhóm Quinolon (Ciprofloxacin, Ofloxacin, Levoflomycin) phục vụ điều trị và phòng, chống dịch.

Cục Quản lý Dược Việt Nam sẽ  trực 24/24 giờ để giải quyết ngay các đơn hàng nhập khẩu phòng chống dịch bệnh.

Có thể bạn quan tâm