Giếng nghiêng của Vàng Danh được mở từ mức 110 xuống mức 0. Ðào giếng là đào lò nghiêng trong đá. Ðể tăng được tốc độ đào lò, Vàng Danh chọn hai cách. Ðầu tiên là tổ chức lại sản xuất, chọn lựa những thợ lò giỏi, chuyển chế độ làm việc từ ba ca sang bốn kíp. Mỗi kíp thợ làm việc liên tục sáu giờ trong lò. Sau đó là việc cơ giới hóa, đưa máy đào lò liên hợp AM 502 vào sử dụng. Máy đào mỗi tháng được 70 mét (tiết diện 15 m2). Dùng máy, năng suất tăng gấp hai lần, cũng có nghĩa là sớm hơn được một năm, tính đến lúc mở lò chợ khai thác.
- Chỉ có cách như vậy mới tạo nhanh được diện khai thác, bảo đảm cho Vàng Danh có được sản lượng ổn định - Giám đốc Công ty than Vàng Danh Nguyễn Văn Dậu đã nói như vậy khi giới thiệu với chúng tôi về giếng nghiêng này.
Chẳng riêng gì Vàng Danh, mà toàn ngành than, Ðèo Nai, Cọc 6, Cao Sơn, Hà Tu, Núi Béo, Mạo Khê, Dương Huy... đang dồn sức để tăng nhanh sản lượng than. Cuộc đua "tăng tốc" này đã nóng từ năm 2002. Nhiều mỏ lớn không có ngày nghỉ chủ nhật. "Căng thẳng nhưng mà vui, than sản xuất đến đâu bán hết đến đó". Các công ty, các mỏ than đều nói giống nhau như thế. Còn một điểm giống nữa: Công ty nào cũng nói đến khoán, quản, tiết kiệm, giảm chi phí trong giá thành. Nhờ vậy mà toàn ngành liên tục đạt được ba mục tiêu lớn là: tăng trưởng, hiệu quả, cải thiện đời sống công nhân.
Nhiều người khẳng định: Mô hình tập đoàn ra đời đã tạo được cách quản lý mới, vừa lập lại được trật tự trong khai thác mỏ, vừa quản lý chặt chẽ được sản phẩm (từ khai thác đến vận chuyển, tiêu thụ) đồng thời tận thu được triệt để mọi nguồn than. Ðó cũng là cách tạo ra nguồn lãi, mà chỉ trên sổ sách đôi khi không tính đếm được.
Năm năm trở lại đây, đời sống vật chất, tinh thần của công nhân ngành than được cải thiện rõ rệt. Việc cải thiện này là toàn diện chứ không chỉ là tăng thu nhập. Trong sản xuất, điều kiện làm việc của công nhân tốt hơn. Thợ lái xe, lái máy xúc ở các mỏ lộ thiên đã được ngồi trong những ca bin có lắp máy lạnh. Ở các mỏ than hầm lò thì máy khấu than, máy đào lò liên hợp thay cho "choòng căn, búa đóng". Trong lò chợ phổ biến là dùng vì chống thủy lực đơn, dàn chống, vừa giảm việc dùng gỗ lại giữ lò được vững chắc an toàn. Nhưng thay đổi nhiều nhất, dễ thấy nhất là việc đi lại, ăn, ở, tắm giặt của công nhân. Công nhân mỏ than Mông Dương bây giờ khác xưa nhiều lắm, đi làm có xe ca đưa, đón, sau ca làm việc được xông hơi, tắm nước nóng, dùng xà phòng thơm. Quần áo, giày ủng thay ra có người giặt. Trang bị bảo hộ không bao giờ thiếu. Bữa ăn sau ca là bữa ăn tự chọn, hàng chục món: thịt, cá, tôm, trứng, rau, đậu... Bàn, ghế nhà ăn toàn đồ i-nốc sáng choang chẳng kém gì các nhà hàng. Những bữa ăn sau ca tự chọn như vậy, thợ lò không phải đóng tiền. Ở các mỏ than lộ thiên, tùy theo ngành, nghề, mỗi người đóng thêm ba, bốn nghìn đồng. Ăn tự chọn đã thành phong trào trong các công ty than. Khách của nhiều tua du lịch, đến tham quan công trường khai thác than Mỏ Hà Tu đều muốn ở lại ăn bữa cơm tự chọn trên công trường với công nhân mỏ.
ÐÃ có khá nhiều thợ lò đóng thuế thu nhập cao. Rất đông thợ được đi điều dưỡng, tham quan, du lịch trong nước, ngoài nước. Sân vận động, nhà văn hóa, nhà thi đấu thể thao, mỏ lớn nào cũng có. Nhưng đẹp nhất, phong trào văn hóa, thể thao mạnh nhất phải kể đến các Công ty tuyển than Cửa Ông; Công ty than Hà Tu; Công ty than Cao Sơn; Công ty than Mạo Khê... Ðồng chí Nguyễn Văn Phúc, Phó Bí thư Ðảng ủy than Quảng Ninh nói: Tôi ở vùng mỏ đã 39 năm, thấy rõ là việc đi lại, ăn ở, thu nhập của công nhân mỏ mấy năm qua thay đổi rõ rệt. Ðời sống thợ mỏ được cải thiện một cách rõ ràng. Song chưa thể bằng lòng với những gì đã làm được. Ngành than còn phải tiếp tục phấn đấu, giữ cho môi trường sống của công nhân trong lành hơn. Trước mắt là giảm tối đa bụi than, bụi đất ở nơi sản xuất và khu dân cư. Việc nữa là phải thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp an toàn để giảm tai nạn trong các mỏ than hầm lò.