Không thể có một viện bảo tàng, không thể có một cuốn phim tài liệu đủ dài ghi lại chặng đường lịch sử bi hùng này. Ðắm mình trong dòng chảy về quá khứ, may ra mới cảm nhận, thấm, ngấm phần nào. Bây giờ nhiều ngày nghỉ, lễ Tết. Nhiều chỗ vui chơi, giải trí, tiêu khiển; trong nước có, ngoài nước không thiếu. Ngót nghét sáu, bảy trăm cây số "về nguồn". Ðường sá xa xôi, nghĩ mà ngại. Dù đi xe máy lạnh, ăn ngủ khách sạn sang...
Ðường sá êm ru. Không một hạt bụi. Không một giọt mồ hôi, nhưng vẫn mệt bã người. Cả dòng người đứng trước cửa hầm sâu hun hút. Ánh sáng lờ mờ, hơi đất ẩm lạnh. Lần lượt từng người cúi đầu, khom lưng, so vai, dò dẫm từng bước. Bậc đất ướt và trơn. Hai tay bấu vào tường đất, nếu không sẽ trượt ngã. Người sau bám sát chân người trước.
Ánh đèn pin của cậu hướng dẫn viên du lịch không đủ hắt sáng về phía sau. Thực ra cũng không cần nhiều ánh sáng. Có gì để nhìn ngắm, "tham quan"? Một căn phòng chỉ rộng hơn hai mét vuông. Một trạm y tế vừa đủ kê một chiếc giường cá nhân. Hàng trăm con người đã sống âm thầm dưới lòng đất sâu ngót 12 m. Họ đã sinh con đẻ cái, đã hít thở không khí hiếm hoi qua những lỗ thông hơi. Những người dân tuyến lửa Vĩnh Linh đã sống như thế trong suốt bao năm chiến tranh bom đạn. Có lẽ trên thế giới chưa từng có và sẽ không bao giờ có một công trình ngầm do bàn tay con người làm nên như địa đạo này.
Tôi lặng người hồi lâu trước những ngách hầm khoét sâu vào lòng đất đã mòn nhẵn dấu vết cuộc sống. Chạm tay vào tường đất như vẫn thấy hơi ấm của con người. Càng xuống sâu, không khí càng như sánh lại, ngột ngạt. Ðường hầm hẹp hơn, thấp hơn và tối hơn. Cậu hướng dẫn viên ngoái lại, nói to: "Sắp xuống tầng cuối cùng, nếu ai cảm thấy khó thở, khó chịu thì rẽ theo ngách phải là ra tới bờ biển". Tiếng nói lao xao sau lưng tôi: "Thôi thế là biết địa đạo rồi. Xuống nữa cũng vậy thôi". Tôi và mấy người lẳng lặng bước xuống những bậc đất dốc như dựng đứng dẫn xuống nơi vô tận.
Tường đất chật hẹp, ướt mềm tay. Nhiều chỗ phải nghiêng vai, đầu cúi thấp. Tôi nhẩm đếm khoảng hơn ba chục bậc. Chân bước theo đầu, vì mắt không cảm nhận được bất cứ cái gì. Bỗng nhiên, tôi va đầu vào vách đất. Ðịnh thần lại, tôi chợt nhận ra chút ánh sáng yếu ớt lọt qua ngách hầm, dọi xuống miệng giếng nước. Dưới lòng đất sâu thẳm, tối tăm làm sao lại có giếng được? Phải rồi, trước lúc xuống được nghe cậu hướng dẫn viên du lịch giới thiệu là ở dưới này từng có một xã hội nhỏ sống ngầm dưới lòng đất. Có chỗ họp, có nơi học cho trẻ, tất nhiên phải có giếng nước ăn.
Tôi bám tay vào bờ giếng, cúi gập nửa người, cố vốc chút nước đưa lên miệng. Mùi và vị tựa nước mưa, nhưng không phải nước mưa. Nước mạch ngầm trong lòng đất chứa những khoáng chất gì mà ngọt lành, mát lạnh mãi trong cổ, thấm vào máu lan ra khắp người?
Hơn hai giờ dưới mấy tầng đất mà tưởng như sống mấy năm cùng người dân ở đây. Vừa ngoi lên mặt đất, ngực đỡ tức thở, nhẹ nhõm hẳn. Thèm không khí, thèm bầu trời xanh vời vợi trên đầu. Tôi tìm một quán nước mé ngoài khu di tích. Trong người háo nước, thèm một chén chè. Trong kia người ta chỉ bán các loại nước giải khát, bia lon. Quán nước vắng teo. Chỉ thấy hai chị em. Ðứa lớn chừng mười tuổi, đứa bé tóc đuôi gà, ngồi nép bên chị. Chúng tíu tít lấy bát, rót nước. Bát nước chè xanh sóng sánh, khói nóng tỏa hương vị ngan ngát chát nồng.
Tôi nhấp thong thả từng ngụm. Chắc hẳn cũng là nước từ mạch ngầm trong lòng giếng địa đạo. Ngước nhìn lên, tôi bắt gặp đôi mắt con bé mở tròn, trong vắt, hiền dịu như mắt giếng thăm thẳm không thấy đáy.