Luật Kiểm toán Nhà nước

Luật KTNN được xây dựng trên cơ sở quán triệt và thể chế hóa đường lối, chủ trương của Ðảng về phát triển KTNN; tổng kết thực tiễn 10 năm hoạt động của KTNN, kế thừa những quy định còn phù hợp trong các văn bản pháp luật hiện hành, nhất là Luật Ngân sách Nhà nước, các luật, pháp lệnh liên quan hệ thống tài chính, hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính; tham khảo có chọn lọc nội dung Luật Kiểm toán của một số nước trong khu vực và trên thế giới cũng như Tuyên bố Lima về kiểm tra tài chính công của Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI).

Theo quy định tại Ðiều 3 của Luật thì mục đích hoạt động KTNN là "phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước".

Về đối tượng kiểm toán, Ðiều 5 Luật KTNN quy định "Ðối tượng kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước" của mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước. Về nguyên tắc, vốn và tài sản Nhà nước có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước phải được KTNN kiểm toán, bảo đảm quyền chủ sở hữu của Nhà nước.

Nguyên tắc hoạt động của KTNN được quy định tại Ðiều 7 của Luật, là: Ðộc lập và chỉ tuân theo pháp luật; trung thực, khách quan. Trong đó "Ðộc lập và chỉ tuân theo pháp luật" là nguyên tắc cơ bản, quan trọng, xuyên suốt đối với hoạt động kiểm toán của KTNN, phù hợp thông lệ quốc tế. Theo Tuyên bố Li-ma về kiểm tra tài chính công của tổ chức INTOSAI mà Việt Nam là thành viên, thì tính độc lập của cơ quan KTNN là nguyên tắc tối cao, là tiền đề cơ bản bảo đảm cho công tác kiểm tra tài chính công có hiệu lực và hiệu quả.

Ðể xác lập cơ chế cho KTNN hoạt động theo nguyên tắc nêu trên, Ðiều 13 Luật KTNN quy định địa vị pháp lý của KTNN như sau: "KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính Nhà nước do QH thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Tính độc lập của KTNN tương tự như Viện KSNDTC và Tòa án Nhân dân tối cao ở nước ta, nhưng KTNN không thuộc hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp. KTNN có chức năng kiểm toán, báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với mọi cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước (Ðiều 14). Trong đó, "kiểm toán báo cáo tài chính" là loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá, xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo này. "Kiểm toán tuân thủ" là kiểm tra, đánh giá và xác nhận việc tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được kiểm toán phải thực hiện. Kiểm toán hoạt động là kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước.

Báo cáo kiểm toán của KTNN là văn bản do KTNN lập và công bố để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán (khoản 1, Ðiều 9). Báo cáo kiểm toán là một trong những căn cứ quan trọng để QH, Chính phủ, cơ quan tư pháp và các cơ quan khác của Nhà nước sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật KTNN quy định đầy đủ giá trị của báo cáo kiểm toán nhằm khẳng định vai trò của KTNN, đồng thời đề cao trách nhiệm đối với báo cáo kiểm toán; KTNN phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ nội dung báo cáo kiểm toán.

Báo cáo kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN sau khi trình QH, được công bố theo các hình thức: họp báo, đăng trên công báo và các phương tiện thông tin đại chúng.

Luật KTNN dành một chương riêng (chương V) quy định về đơn vị được kiểm toán. Theo đó, đơn vị được kiểm toán (các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước) bên cạnh nghĩa vụ phải chấp hành quyết định kiểm toán, cung cấp thông tin và giải trình những vấn đề được yêu cầu; có quyền yêu cầu Ðoàn kiểm toán xuất trình quyết định kiểm toán, kiểm toán viên xuất trình Thẻ kiểm toán viên Nhà nước; từ chối cung cấp thông tin tài liệu không liên quan nội dung kiểm toán, đề nghị thay thế thành viên Ðoàn kiểm toán khi có bằng chứng người đó không vô tư trong khi làm nhiệm vụ; yêu cầu bồi thường trong trường hợp gây thiệt hại cho đơn vị được kiểm toán...

Khi đơn vị được kiểm toán có kiến nghị về nội dung báo cáo kiểm toán thì trong thời hạn 30 ngày, Tổng KTNN phải xem xét giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày.

Tổng KTNN do QH bầu, nhiệm kỳ là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ. Quy định nhiệm kỳ bảy năm để bảo đảm tính liên tục, chuyên sâu, tính chuyên nghiệp cao, tính kế thừa giữa các nhiệm kỳ QH và phù hợp thông lệ quốc tế.

Luật KTNN được ban hành là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế, tài chính, là công cụ pháp lý để tăng cường kiểm tra, kiểm soát hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước, góp phần làm minh bạch và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia.