Vẫn biết Trường Sa bây giờ đã đổi khác. Nhưng lần trở lại vào mùa hè này, khi được nhìn tận mắt những đổi thay của Trường Sa, tôi vẫn không khỏi bàng hoàng. Tôi đến Trường Sa lần đầu vào những năm bảy mươi của …thế kỷ trước. Bấy giờ, Trường Sa nghèo lắm. Một dải cát chang chang nắng. Nắng đến nhức mắt. Trên đảo cũng có cây. Chỉ một thứ cây. Đó là loại cây dại sống được trên đá san hô. Lính gọi là cây Phong ba. Cái tên nghe cũng dữ dội, vất vả. Nhiều đảo còn không có cây. Bóng râm duy nhất tỏa xuống mặt cát bỏng là bóng dáng người lính. Ở đảo, như ở một cõi khác. Không có tiền bạc, vật chất đã đành, đến cả ngày tháng cũng không. Chỉ biết mặt trời lên là thêm một ngày mới và mặt trời lặn là đã qua một ngày. Mặc dù đảo luôn được chăm chút, quan tâm của cả đất liền, nhưng đâu phải vì thế mà người lính đảo bớt đi được nỗi vất vả. Ngay cả việc đơn giản nhất là xác định thời gian cũng đã khó khăn rồi. Mặc dù ở đảo đâu có thiếu lịch. Ngoài tờ lịch lớn treo ở phòng Chỉ huy đảo, tiểu đội nào trong đơn vị cũng có lịch, mỗi người lính còn có thêm một cuốn lịch con trong túi, nhưng chịu, không thể biết được ngày nào, tháng nào. Ở đảo không có xuân, hạ, thu, đông. Ngày Tết cũng nắng ngun ngút. Thi thoảng dò được làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, lại gặp đúng buổi tường thuật bóng, thì có thể biết chắc chắn đó là buổi chiều chủ nhật. Nhưng một tháng có đến bốn chủ nhật. Vậy là chủ nhật nào đây?. Chịu, không thể xác định được. Chính trị viên đảo đành chọn một ngày để định vị, thống nhất thời gian cho cả “vương quốc” sóng gió.
Gian khổ vất vả thế, nhưng vui. Tôi không sao quên được cuộc gặp gỡ chớp nhoáng với Tư lệnh biển Giáp Văn Cương. Tôi cũng đã kể về ông trong cuốn tiểu thuyết Đảo chìm. Kể rất nhiều rồi mà dường như vẫn chưa nói được gì về ông. Bây giờ, ông đã thành người trong cõi “nhớ thương” rồi. Tôi rất mừng khi ai đó đề xuất rằng, ở Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài đường Trường Sa, nên có một con đường mang tên Giáp Văn Cương. Đấy là một gợi ý hay. Chúng ta cũng cần lưu giữ lại một chút gì về ông cho hậu thế.
Cho đến nay, vẫn có người còn nhầm Thượng tướng Giáp Văn Cương với Trung tá Giáp Văn Khương, người lính đánh Pháp xưa đã dũng cảm nhảy từ đỉnh núi đá xuống con sông ở tỉnh Ninh Bình. Đó là hai vị anh hùng hoàn toàn khác nhau. Giáp Văn Cương là một tướng tài. Ông là tướng quân sự, nhưng diễn thuyết rất hay. Tôi rất thích nghe tướng Cương trò chuyện với lính. Hồi ấy nghĩa vụ quân sự bốn năm. Có người ở đảo đến cả chục năm liền. Tướng Cương bảo: Tớ đâu có muốn đày đọa các cậu. Giá trị gì mấy cái hòn đá hoang vu cỗi cằn này mà phải gìn giữ? Nhưng đây là Tổ quốc, là máu thịt của mình. Chúng ta canh giữ, bảo vệ, có phải bảo vệ mấy hòn đá hoang dại này đâu. Mà là giữ biển đấy chứ. Mất đảo là mất biển, mà biển lại bao bọc chúng ta suốt từ bắc đến nam. Tất cả kẻ thù đánh ta đều đi từ biển vào. Thực dân Pháp vào ta từ biển. Đế quốc Mỹ cũng thế. Gần kề ta, núi liền núi, sông liền sông, mà Ô Mã Nhi xưa cũng tấn công ta qua cửa biển Bạch Đằng. Thế thì chúng ta phải giữ đảo, giữ biển thôi. Khổ mấy cũng phải giữ. Có chết cũng phải giữ. Thế nên chúng mày mới phải chịu cảnh đọa đầy thế này. Tao già rồi, ngoài 70 rồi, lẽ ra phải được ở nhà an thú tuổi già chứ, vậy mà rồi tao vẫn phải lặn lội sóng gió ra đây với chúng mày. Rồi vẫn phải làm Tư lệnh. Tất nhiên tớ biết, các cậu vất vả hơn Tư lệnh, khổ hơn Tư lệnh nhiều. Vì Tư lệnh còn được ở đất liền. Hay là các cậu vào đất liền, làm Tư lệnh đi, để tớ giữ đảo cho. Ở đây có cậu nào làm được Tư lệnh không? Nào! Xung phong nào? Mạnh dạn lên chứ!. Cậu nào làm được Tư lệnh, tớ sẽ báo cáo quân chủng, báo cáo Bộ Chính trị cho thay ngay Giáp Văn Cương? Còn việc về phép của các cậu, chúng tớ có tiếc gì đâu. Nhưng Bộ Tư lệnh nghèo quá. Đất nước nghèo quá. Còn hàng triệu bà mẹ liệt sĩ thiếu ăn, hàng triệu trẻ con không có trường học. Đưa một cậu về phép, Bộ Tư lệnh phải xuất 20 tấn dầu, cả tầu ra tầu về. Mà dầu thì cả nước không có, phải mua của nước ngoài, mua rất đắt. Mỗi đứa bớt một lần về phép thì một trăm bà mẹ liệt sĩ có được đến mấy tháng ăn. Mà hàng triệu bà mẹ liệt sĩ vẫn còn đói khổ. Thế rồi ông khóc. Lính cũng khóc. Thôi, chúng con hiểu rồi. Bố đừng nói nữa, chúng con thương bố lắm. Ông Cương bảo: Chẳng ai nỡ làm một cái việc táng tận lương tâm là cắt phép của các cậu. Nhưng hôm nay tớ phải làm cái việc táng tận lương tâm ấy đấy. Cắt phép. Có đứa nào phản đối không? Không à? Thế là ông khóc. Khóc thật sự. Còn nếu cậu nào có thể tự túc về được thì tớ cho các cậu đi ngay. Đi bất cứ lúc nào. Có ai bơi được về đất liền không? Không à? Trai trẻ gì mà kém thế. Tớ mà trẻ trai như các cậu là tớ “trốn” đấy. Thế là tướng với lính cười bò. Cười mà nước mắt giàn giụa.
Ông Cương tài lắm. Mà rất chân thành. Cánh lính thương ông cũng vì sự chân thành ấy. Tôi nhớ có lần một cậu lính trẻ xứ Nghệ còn “tham mưu” cho ông một kế sách giữ đảo. Bố đừng lo! Chúng con ở đây quen rồi! Khổ mấy chúng con cũng chịu được! Không kẻ thù nào cướp được đảo của chúng ta đâu. Thời trộm cắp bát nháo qua rồi. Nhưng đúng như bố nói đấy. Rất vất vả, cực nhọc. Nhiều lúc mệt quá, con liều nghĩ, hay là ta cứ tạm giấu quách đảo đi! Giấu đảo à? Mày nói gì lạ thế? Giấu thế nào? Thì bố cứ cho con mượn tạm cái xẻng. Chỉ ba tiếng là con giấu xong đảo thôi! Bố có biết con ngụy trang đảo thế nào không? Con sẽ xúc hết chỗ cát này giấu xuống biển, đố kẻ thù nào nhìn thấy đảo, có muốn cướp đảo cũng chịu! Ối giời đất ơi! Một kế sách “động trời!”. Nếu gặp phải vị chỉ huy “non tay”, chắc chàng lính trẻ đã bị kỷ luật vì “mất lập trường quan điểm”. Đồng chí chính trị viên đảo lúc bấy giờ cũng thấy bất ngờ vì sự “quá trớn” của lính tráng. Nhưng anh còn bất ngờ hơn vì Tư lệnh cười vang, cười đến giàn giụa nước mắt. Tư lệnh khen chàng lính trẻ có sáng kiến hay. Rồi ông lóp nhóp đánh xuồng về tàu. Và thật bất ngờ, lát sau, ông trở lại với chiếc xẻng còn mới coóng. Đây! Xẻng đây! Không phải mượn đâu. Tớ tặng luôn cậu đấy để cậu giấu đảo! Cứ tưởng anh lính trẻ sẽ lắc đầu quầy quậy. Nào ngờ anh vồ vập đón chiếc xẻng từ tay Tư lệnh. Và sáng sớm hôm sau, khi Tư lệnh đánh xuồng trở lại đảo thì thấy anh chàng đang cởi trần, sì sụp lặn ngụp cùng với chiếc xẻng của Tư lệnh. Nhưng anh không xúc cát đổ xuống biển, mà lấy cán xẻng khẽ bẩy từng tảng đá san hô chìm sâu dưới mấy mét nước, rồi lụi cụi khuân lên, đắp quanh chân đảo, giữ cho cát khỏi bay. Mày làm cái gì thế? Giấu đảo à? Dạ, báo cáo bố, con mở mang bờ cõi ạ! - Anh lính cười khục khục - Mà, mà, đúng ra, đúng ra chúng con chỉ “buông neo” cho Tổ quốc khỏi bị “trôi dạt” thôi!
Có lẽ không ở nơi nào, số người chết trận nhiều như ở Việt Nam. Hầu như làng nào, xã nào cũng có Nghĩa trang liệt sĩ.
Trước khi vào Đảo, chúng tôi thả hoa xuống Biển Đông. Trong khoảnh khắc linh thiêng ấy, tôi chợt nhận ra rằng, cả một đại dương mênh mông, mặn đắng như nước mắt kia hóa ra là một nghĩa trang bằng nước. Chúng ta còn có bao nhiêu những Nghĩa trang ở bên ngoài Nghĩa trang như thế trong vô vàn những con sông, những cánh rừng mù mịt thăm thẳm kia?
Nếu trên mộ mỗi người lính chỉ thắp một ngọn nến, thì đêm đêm, trên dải đất hình chữ S của chúng ta kia sẽ sáng rực lên như một dải Ngân hà. Chính những người lính quả cảm ấy đang “neo giữ” để Tổ quốc của chúng ta dù khó khăn, gian khổ thế nào sẽ cũng không bao giờ bị “trôi dạt”!
* Tổ quốc sẽ không bao giờ bị trôi dạt, bởi chúng ta đã có những vị Tướng như thế, những người lính như thế. Bây giờ, Trường Sa đã khác. Cây lá xanh rì với bầu khí quyển trong lành như một công viên sinh thái. Thấp thoáng sau những bóng cây là mái chùa quen thuộc. Tôi ước ở đây sẽ có những đoạn đường dù chỉ dài mấy trăm mét thôi mang tên Giáp Văn Cương, rồi các đường phố mới mở ở 63 tỉnh thành trong dải đất liền hình chữ S kia, cũng sẽ có những con phố mang tên ông, mang tên những người lính của ông, những chiến sĩ vô danh đã quấn lá cờ Tổ quốc lên thân mình, rồi lấy ngực mình chắn những luồng đạn hung bạo, che chở cho tất cả chúng ta.