Cuộc trao đổi về những đổi mới quan trọng trong phương pháp luận, cách thức tổ chức soạn thảo và nội dung trọng tâm của văn kiện – tài liệu có ý nghĩa chiến lược định hướng tương lai đất nước.
- Phóng viên: Xin ông cho biết những điểm mới về phương pháp luận và cách thức tổ chức trong quá trình soạn thảo dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng?
- GS.TS Tạ Ngọc Tấn: Lần đầu tiên, công tác chuẩn bị văn kiện Đại hội được tiến hành theo cách làm đổi mới, hướng tới một văn kiện gần dân hơn, dễ đọc, dễ hiểu và dễ tổ chức thực hiện. Cách tiếp cận này khắc phục tình trạng trước đây khi nghị quyết đại hội ban hành rồi, các kỳ họp Trung ương mới tiếp tục cụ thể hóa thành các chủ trương, khiến hiệu quả tổ chức thực hiện bị hạn chế - một “căn bệnh cố hữu” thường được nêu ra trong các kỳ kiểm điểm nhiệm kỳ. Lần này, có bốn điểm đổi mới then chốt được đưa ra để khắc phục hạn chế đó.
Thứ nhất, Báo cáo chính trị - văn kiện trung tâm của đại hội, trong đó đã tích hợp cả báo cáo kinh tế-xã hội và báo cáo xây dựng Đảng. Việc này tạo ra một hệ thống thông tin thống nhất về quan điểm, chủ trương, đường lối; tránh tình trạng trước đây, các báo cáo có thể “vênh” nhau, đôi khi có thể dẫn tới những cách hiểu khác nhau. Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng cũng được xây dựng ngắn gọn, cô đọng, dễ tiếp thu hơn.
Thứ hai, lần đầu tiên văn kiện có một Chương trình hành động kèm theo. Chương trình này nêu rất cụ thể từng công việc, từng đề án, vấn đề phải giải quyết trong nhiệm kỳ, kèm theo người chịu trách nhiệm, yêu cầu về hiệu quả và tiến độ thời gian. Đây là điều kiện quan trọng để đường lối, chủ trương trong Báo cáo chính trị có thể được triển khai nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Thứ ba, để bảo đảm các chủ trương, đường lối đi vào cuộc sống ngay từ đầu nhiệm kỳ, Trung ương và Bộ Chính trị đã đồng thời soạn thảo một loạt quyết sách mang tính chiến lược. Các quyết sách này trải rộng từ hội nhập quốc tế, thể chế, khoa học công nghệ, kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa… với những nghị quyết rất cụ thể. Điều này giúp Trung ương không phải mất 2–3 năm đầu nhiệm kỳ mới ban hành nghị quyết, như trước đây nhiều nghị quyết phải chờ đến Hội nghị Trung ương 8, 9 mới thông qua, dẫn đến thiếu thời gian triển khai. Với cách làm mới này, có thể nói những nội dung cơ bản nhất về đường lối, chủ trương đã được cụ thể hóa ngay từ trước và trong đại hội, để nhiệm kỳ mới có thể bắt tay vào việc ngay.
Thứ tư, trong gần hai năm cuối nhiệm kỳ, quá trình xây dựng văn kiện được cập nhật và tiếp thu ý kiến liên tục. Tiểu ban Văn kiện đã huy động, tập hợp hàng nghìn nhà khoa học, chuyên gia đến từ các trường đại học, các viện nghiên cứu, các tổ chức nhân dân, tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, trao đổi ý kiến về từng vấn đề. Sau mỗi kỳ họp Trung ương, mỗi lần Bộ Chính trị cho ý kiến, Tổ biên tập đều nhanh chóng giúp Tiểu ban Văn kiện chắt lọc, tiếp thu ý kiến để bổ sung, hoàn thiện văn kiện. Đặc biệt, sau một tháng đưa văn kiện ra lấy ý kiến toàn dân đã có gần 5 triệu lượt người tham góp ý kiến. Có thể nói, quá trình xây dựng văn kiện lần này thật sự là một quá trình dân chủ hóa, bảo đảm văn kiện thật sự tập trung trí tuệ, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, tạo ra đồng thuận xã hội. Khi văn kiện đã được hiểu và có sự đồng thuận ngay từ trong quá trình chuẩn bị, thì việc tổ chức thực hiện sau Đại hội sẽ thuận lợi hơn rất nhiều
- Ông đánh giá thế nào về những điểm đổi mới nổi bật trong nội dung dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng?
Về nội dung, văn kiện lần này bao gồm nhiều điểm mới, trong đó có những nội dung lần đầu tiên được đưa vào Báo cáo chính trị, và cũng có những nội dung được nhấn mạnh sâu sắc, làm rõ hơn so với trước.
Thí dụ, lần đầu tiên một khái niệm lý luận về đường lối Đổi mới được đưa vào Báo cáo chính trị, coi đó là một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là kết quả của quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn 40 năm xây dựng CNXH ở Việt Nam, đúc rút thành những quan điểm nền tảng về kinh tế-xã hội, trên cơ sở nhận thức sâu sắc hơn về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Lý luận về đường lối Đổi mới đã dẫn tới nhiều chủ trương, đường lối mới về phát triển kinh tế - xã hội. Chẳng hạn như việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN – một chủ trương mang tính cách mạng. Trong lĩnh vực Nhà nước, lần đầu tiên chúng ta nhận thức một cách đầy đủ hơn về Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện thời kỳ quá độ đi lên CNXH, thông qua Nghị quyết 27. Đây là bước hoàn thiện rất quan trọng, đánh dấu sự chuyển đổi từ một Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước pháp quyền XHCN lấy thượng tôn pháp luật làm nguyên tắc hoạt động. Đó là những bước chuyển mang tính cách mạng trong nhận thức về Nhà nước…
- Thưa ông, đâu là triết lý phát triển và những mục tiêu trọng tâm mà dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng đặt ra cho giai đoạn tới?
Trước hết, mục tiêu cho giai đoạn 2026–2030 và tầm nhìn tiếp theo rất tham vọng: tăng trưởng GDP phải đạt từ hai con số trở lên. Bởi đến năm 2030, chúng ta phải trở thành nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, GDP bình quân đầu người mức trung bình cao và đến năm 2045 phải đạt mức nước phát triển, thu nhập cao, tức khoảng 18 nghìn USD/người. Muốn vậy, từ 2026 đến 2045, tăng trưởng phải duy trì ổn định ở mức hai con số.
Giai đoạn vừa qua, tăng trưởng chung đạt 6–8%, nhưng nhiều địa phương đã vươn tới 12–15%, cho thấy khả năng thực tiễn để đạt tốc độ cao là có. Cộng thêm tiềm năng về lao động, vốn, khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo và sự tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, chúng ta có cơ sở để đặt mục tiêu ấy. Và để đạt được, điều kiện then chốt là xác lập mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo ra năng suất lao động cao.
Lần đầu tiên, văn kiện nhấn mạnh bảo vệ môi trường như một nhiệm vụ trung tâm phát triển. Vì vậy, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trở thành yêu cầu tất yếu và trong chương trình hành động, có nhiệm vụ rất cụ thể như giải quyết dứt điểm ô nhiễm không khí ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
- Với những vấn đề như già hóa dân số, chênh lệch vùng miền, khoảng cách giàu nghèo và kiểm soát quyền lực, dự thảo văn kiện lần này đề xuất các giải pháp mang tính cấu trúc lâu dài hay chỉ là những xử lý tình thế?
Giải quyết những vấn đề mang tính cơ cấu xã hội được văn kiện đặt ra rất rõ. Giải pháp quan trọng của chúng ta là quản lý tốt sự phát triển của xã hội, để giảm thiểu chênh lệch giàu nghèo, làm cho cơ cấu xã hội ngày càng hợp lý hơn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, đồng thời giảm tác động tiêu cực của già hóa dân số.
Muốn vậy, phải thúc đẩy giáo dục công bằng, miễn học phí từ mẫu giáo đến phổ thông và giảm thiểu tối đa sự đóng góp của nhân dân trong chăm sóc sức khỏe. Cùng với đó là một loạt biện pháp cụ thể đã và đang triển khai, như xây dựng các trường dân tộc nội trú ở vùng sâu, vùng xa. Những giải pháp này là điều kiện quan trọng để tạo sự đồng thuận và hạnh phúc của người dân, đồng thời bảo đảm ổn định chính trị - xã hội theo tinh thần mà cha ông ta đã nói rất đúng: “An dân là kế sâu rễ, bền gốc”.
Để kiểm soát quyền lực, Báo cáo chính trị đề cập đến nhiều biện pháp rất cụ thể: tăng cường hậu kiểm; nâng cao vai trò và trách nhiệm của cán bộ; đặc biệt là gắn giao quyền với giao thẩm quyền và giao trách nhiệm. Một nội dung rất quan trọng là đưa mức độ hài lòng của người dân trở thành tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá cán bộ. Đây đều là những giải pháp gắn với yêu cầu giám sát quyền lực.
Cùng với đó, văn kiện nhấn mạnh tăng cường bộ máy kiểm tra, giám sát, nhất là khi hệ thống tổ chức Đảng được xây dựng phù hợp với hệ thống cơ quan hành chính của Nhà nước, giúp siết chặt giám sát theo ngành dọc và tạo điều kiện để người dân, các cơ quan dân cử tham gia kiểm soát quyền lực.
- Sau một tháng lấy ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, những vấn đề nào được người dân tập trung góp ý nhiều nhất, thưa ông?
Việc tập hợp, đọc và chọn lọc tiếp thu các ý kiến góp ý của toàn dân là một quá trình rất nghiêm túc và công phu, dù có sự hỗ trợ của công nghệ. Rất nhiều nội dung của Báo cáo chính trị đã được tiếp thu để hoàn thiện hoặc thể hiện rõ hơn, sâu sắc hơn nhờ ý kiến góp ý của nhân dân. Cho đến nay, văn kiện vẫn tiếp tục được hoàn thiện trước khi trình Trung ương và Đại hội.
Những vấn đề quan tâm của người dân đối với Báo cáo chính trị rất toàn diện, đa dạng, cụ thể, tuy nhiên, tập trung nhiều nhất là bốn nhóm:
Trước hết, là các giải pháp hoàn thiện thể chế, tạo ra hệ thống pháp luật thông thoáng và bộ máy được tổ chức và vận hành một cách hợp lý, thuận tiện, gần dân.
Tiếp đó, là cơ chế và hiệu quả của bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, nhất là tổ chức bộ máy, sắp xếp nhân sự, đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu, chức năng và những nhiệm vụ cụ thể của chính quyền cấp xã.
Bên cạnh đó, là các dịch vụ gắn trực tiếp với đời sống như giáo dục, y tế, lao động việc làm, làm sao phát triển ngang tầm khu vực và thế giới.
Cuối cùng, là những vấn đề về an ninh con người và an toàn cuộc sống, từ an toàn thực phẩm, an toàn môi trường sống, an sinh khi có thiên tai, dịch bệnh đến tai nạn giao thông và yêu cầu nâng cấp hạ tầng nông thôn, đô thị, giao thông đi lại...
Tất cả những nội dung ấy cho thấy khối lượng ý kiến rất lớn, nhiều ý kiến trí tuệ, sắc sảo, thể hiện người dân thật sự quan tâm, có trách nhiệm đối với công việc hệ trọng của Đảng, của đất nước.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!