GÓP Ý KIẾN VÀO DỰ THẢO CÁC VĂN KIỆN TRÌNH ĐẠI HỘI XIV CỦA ĐẢNG

GS, TS PHÙNG HỮU PHÚ, NGUYÊN ỦY VIÊN TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, NGUYÊN PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG LÝ LUẬN TRUNG ƯƠNG.

KHI ĐẢNG THẬT SỰ “LÀ ĐẠO ĐỨC, LÀ VĂN MINH” THÌ LÒNG DÂN YÊN, THẾ NƯỚC VỮNG

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, ở Mục XIV- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng - nhấn mạnh nhiệm vụ giai đoạn phát triển mới cần: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, tự đổi mới để Đảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh, nâng tầm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”, thể hiện sự kế thừa, phát triển tư duy của Đảng ta trong bối cảnh mới. Tư tưởng này không chỉ là khẩu hiệu chính trị mà phải trở thành định hướng hành động cụ thể, có thể kiểm chứng trong thực tiễn hoạt động Đảng và đời sống xã hội. 

Muốn thế, trước hết, cần làm rõ hơn cơ chế cầm quyền và kiểm soát quyền lực của Đảng trong hệ thống chính trị. Dự thảo nhấn mạnh khái niệm “Đảng cầm quyền”, song quan hệ và cơ chế vận hành cụ thể giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân, nhất là ở cơ sở, cần được cụ thể hóa đầy đủ, khoa học hơn nữa. Đặc biệt, cần xác định cụ thể trách nhiệm và quyền hạn; cụ thể hóa cơ chế phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát chặt chẽ quyền lực, bảo đảm tính thống nhất, song cũng có thể kiểm soát lẫn nhau giữa các cấp ủy, chính quyền và hệ thống Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội. Mọi tiêu cực đều phát sinh từ sự tha hóa quyền lực. Khi quyền lực được kiểm soát bằng pháp luật và đạo đức, Đảng mới thật sự vững mạnh trong lòng dân. 

Thứ hai, gắn xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh với minh bạch và trách nhiệm giải trình, nhất là trong công tác cán bộ - “then chốt của then chốt”, “cốt lõi của cốt lõi”. Để “Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện”, trước hết cần công khai, minh bạch hóa quy trình, phương thức đánh giá, đề bạt, luân chuyển và kỷ luật cán bộ. Tôi đề nghị nghiên cứu mô hình “cơ chế đánh giá cán bộ độc lập”, có sự tham gia của nhiều kênh giám sát, bao gồm nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan chuyên môn, không chỉ giúp phòng ngừa sai phạm, mà còn củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên vào sự công tâm, công bằng trong nội bộ. 

Không gian trưng bày "95 năm Cờ Đảng soi đường" trong khuôn khổ Triển lãm thành tựu đất nước thu hút đông đảo người dân đến tham quan và trải nghiệm.

Không gian trưng bày "95 năm Cờ Đảng soi đường" trong khuôn khổ Triển lãm thành tựu đất nước thu hút đông đảo người dân đến tham quan và trải nghiệm.

Thứ ba, đổi mới sinh hoạt ở tổ chức cơ sở Đảng - nền tảng của Đảng cầm quyền. Chất lượng của Đảng phụ thuộc vào chất lượng từng tổ chức cơ sở và từng đảng viên. Tôi tán thành quan điểm trong Dự thảo coi đây là “nền tảng”, song cần cụ thể hóa hơn bằng việc chuẩn hóa các tiêu chí mô hình “Chi bộ bốn tốt”, “Đảng bộ cơ sở bốn tốt”: hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; sinh hoạt tốt; đoàn kết, kỷ luật tốt; cán bộ, đảng viên tốt. Cùng với đó, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản trị, ứng dụng công nghệ, kỹ năng công vụ cho cán bộ cơ sở. Một chi bộ mạnh là chi bộ thật sự vì dân, mang lại những lợi ích thiết thực cho dân. Như vậy, chi bộ chính là nơi dân tin, dân tìm đến khi có việc; ngược lại, nếu chi bộ yếu, nói nhiều, nghị quyết nhiều mà làm ít, làm hình thức, dân sẽ rời xa, uy tín Đảng ở cơ sở sẽ bị bào mòn. 

Thứ tư, phát huy vai trò giám sát của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc. Dự thảo cần bổ sung các giải pháp thực chất, khả thi nhằm bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, kiên quyết khắc phục bệnh hình thức. Đặc biệt, cần có hành lang pháp lý bảo vệ người tố cáo tham nhũng, tiêu cực, xóa đi mặc cảm, tâm lý e dè, sợ bị trù dập. Sức mạnh của Đảng nằm ở chỗ biết thật sự dựa vào dân, lắng nghe dân, và chịu sự giám sát của dân. 

Thứ năm, xây dựng văn hóa Đảng, văn hóa công vụ và văn hóa phục vụ nhân dân - hợp thành văn hóa chính trị. Đảng ta không chỉ là tổ chức chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn là tấm gương văn hóa, đạo đức cho toàn hệ thống. Trong thời đại mới, văn hóa chính trị chính là nền tảng, là nhân tố có ý nghĩa quyết định của quyền lực chính trị. Dự thảo cần nhấn mạnh yêu cầu xây dựng “văn hóa Đảng” với yêu cầu, nội dung cụ thể. Đó là văn hóa nêu gương, trung thực, liêm chính, gần dân, trọng dân, vì dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải là “người giữ và truyền lửa văn hóa Đảng” - nói đi đôi với làm, liêm chính trong hành xử, khiêm nhường trong tiếp dân, kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. 

Tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại của một Đảng cầm quyền chân chính. Đại hội XIV của Đảng là dịp để chúng ta khẳng định quyết tâm ấy - không chỉ bằng lời nói, mà bằng cơ chế, hành động và kết quả thực tiễn. Khi Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh”, thì tự nhiên lòng dân yên, thế nước vững, và niềm tin xã hội được củng cố bền chặt, quan hệ Đảng - Dân tự nhiên sẽ trở thành thiêng liêng và sâu thẳm.

ĐẠI TÁ, TS NGUYỄN MINH SÁNG, CỤC KHOA HỌC, CHIẾN LƯỢC VÀ LỊCH SỬ CÔNG AN:

ỨNG PHÓ KỊP THỜI, HIỆU QUẢ THÁCH THỨC AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG

Nghiên cứu dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng cho thấy nhiều điểm mới, đột phá, trong đó phần nhiệm vụ, giải pháp về quốc phòng, an ninh có hai điểm nhấn quan trọng:

Một là, dự thảo Văn kiện tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ “ứng phó kịp thời, hiệu quả thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống”. Thời gian qua, các đe dọa an ninh phi truyền thống (ANPTT), nhất là bão, lũ lụt, nước biển dâng, xâm nhập mặn và các loại tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, sử dụng công nghệ cao để phạm tội diễn biến rất phức tạp, tác động mạnh mẽ, đa chiều tới an ninh, trật tự của nước ta. Trong đó, về an ninh con người, các đe dọa này trực tiếp ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng, tài sản của nhân dân, làm gia tăng bất ổn và tác động tiêu cực tới tâm lý, xã hội. Về an ninh kinh tế, ANPTT gây đứt gãy chuỗi cung ứng, đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh và dẫn đến gia tăng thất nghiệp, đói nghèo, tạo gánh nặng lên ngân sách quốc gia. Về an ninh chính trị, các đe dọa ANPTT làm suy giảm năng lực quản trị, đe dọa ổn định chính trị và tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Về an ninh môi trường, ANPTT gây cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, làm trầm trọng thêm tình trạng biến đổi khí hậu, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh lương thực và phát triển bền vững, đe dọa đến tương lai giống nòi. Trên bình diện quốc tế, các đe dọa ANPTT lan rộng xuyên quốc gia làm gia tăng căng thẳng, suy giảm lòng tin giữa các nước; cản trở các cơ chế phối hợp đa phương, song phương; tạo cuộc đua về công nghệ và quyền lực mềm; đồng thời có nguy cơ làm phát sinh xung đột mới, đe dọa hòa bình và ổn định khu vực. Những hệ lụy này cho thấy ANPTT không chỉ là nguy cơ ngắn hạn, mà còn là thách thức chiến lược đòi hỏi tư duy toàn diện, linh hoạt để phòng ngừa, ứng phó hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ an toàn và hạnh phúc của nhân dân; phục vụ đất nước phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới.

Tọa đàm chính sách trong khuôn khổ các sự kiện bên lề của Lễ mở ký và Hội nghị cấp cao Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng. Ảnh | TTXVN

Tọa đàm chính sách trong khuôn khổ các sự kiện bên lề của Lễ mở ký và Hội nghị cấp cao Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng. Ảnh | TTXVN

Hai là, dự thảo Báo cáo chính trị xác định:“Đẩy mạnh đột phá phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại; nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân trong bảo vệ vững chắc Tổ quốc trước mọi tình huống, nhất là chiến tranh công nghệ cao”. Cụm từ “Đẩy mạnh đột phá phát triển”, thay vì “phát triển” hoặc “xây dựng” như trong các văn kiện, nghị quyết trước đây cho thấy sự đổi mới cả về nhận thức và tư duy của Đảng ta trước thay đổi của thời cuộc.

Cụ thể hóa nhiệm vụ này, trước hết cần bám sát danh mục các công nghệ chiến lược và sản phẩm công nghệ chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để định hướng đầu tư trọng điểm cho nghiên cứu, phát triển (R&D); khuyến khích hợp tác công-tư, liên kết doanh nghiệp - viện nghiên cứu - trường đại học để chuyển giao và nội địa hóa công nghệ, thay thế dần thiết bị nhập khẩu bằng sản phẩm trong nước, góp phần củng cố chủ quyền công nghệ và bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia trong môi trường số. Mục tiêu cao nhất là Việt Nam có năng lực tự thiết kế, sản xuất, quản trị và bảo vệ hạ tầng công nghệ lõi, bảo đảm an ninh, an toàn liên tục cho toàn bộ hệ thống công nghệ quốc gia. Cùng với đó, cần có chiến lược bài bản, nhất quán trong phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ đặc biệt đối với đội ngũ chuyên gia về công nghệ lõi, an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu để thu hút nhân tài, góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao lĩnh vực công nghệ trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân.

Bảo đảm an ninh công nghệ phải được triển khai toàn trình và toàn diện, không chỉ là bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, dữ liệu, hệ thống công nghệ của quốc gia không bị xâm nhập, phá hoại, chi phối từ bên ngoài, mà còn bao hàm việc kiểm soát, định hướng và quản trị sự phát triển của công nghệ không vượt khỏi khả năng kiểm soát của con người và Nhà nước, không gây hại đến các lợi ích cốt lõi của quốc gia trong kỷ nguyên số.

ÔNG JOHNATHAN HẠNH NGUYỄN, CHỦ TỊCH TẬP ĐOÀN LIÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (IPPG)

MUỐN KINH TẾ TƯ NHÂN LỚN MẠNH, CẦN “CỞI TRÓI” THỂ CHẾ

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Đây là bước tiến mạnh mẽ về nhận thức, lý luận và thực tiễn của Đảng trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tôi cho rằng cốt lõi của một nền kinh tế thị trường hiện đại là sự bình đẳng trong cơ hội và trách nhiệm. Muốn tư nhân lớn mạnh, Nhà nước cần “cởi trói” về thể chế - không phải bằng ưu đãi đặc quyền, mà bằng sự công bằng minh bạch. Tôi kiến nghị ba điểm then chốt:

Tính trung lập cạnh tranh (Competitive neutrality): Chính sách này Việt Nam đang tiến đến, nhưng cần hoàn thiện hơn, bảo đảm doanh nghiệp tư nhân tiếp cận vốn, đất đai, cơ hội đầu tư như các thành phần khác.

Cơ chế hậu kiểm thay vì tiền kiểm, giảm tối đa thủ tục, áp dụng nguyên tắc “im lặng là đồng ý”: Chính phủ đã có những chính sách cơ bản, tuy nhiên thực tế ở nhiều địa phương thủ tục vẫn còn phức tạp, có tiền kiểm và thời gian thực hiện dài. Các nghiên cứu về logistics và vận tải gần đây cũng ghi nhận cần tiếp tục giảm thủ tục để cải thiện.

Thị trường vốn cho đổi mới sáng tạo: Cần luật hóa cấu trúc quỹ đầu tư mạo hiểm chuyên nghiệp, cho phép nhà đầu tư tư nhân (LP) và nhà quản lý chuyên nghiệp (GP) hoạt động theo thông lệ quốc tế - với bảo vệ pháp lý, ưu đãi thuế, và quyền huy động vốn linh hoạt. Hiện nay, Việt Nam chưa có khung pháp lý đầy đủ, khiến các quỹ nội địa vẫn ở dạng “tự phát” hoặc phụ thuộc vốn ngoại, trong khi Singapore, Hàn Quốc, Malaysia đã “chuẩn hóa” từ 5-15 năm nay.

Máy bay vận tải hàng hóa - lĩnh vực đang được Tập đoàn tư nhân IPPG đề xuất đầu tư, góp phần thúc đẩy năng lực logistics hàng không Việt Nam.

Máy bay vận tải hàng hóa - lĩnh vực đang được Tập đoàn tư nhân IPPG đề xuất đầu tư, góp phần thúc đẩy năng lực logistics hàng không Việt Nam.

Môi trường kinh doanh minh bạch, rủi ro được chia sẻ sẽ tạo động lực cho doanh nghiệp dấn thân, đổi mới - và đó là nguồn năng lượng quý giá nhất cho tăng trưởng.

Từ trải nghiệm kết nối thương hiệu quốc tế vào Việt Nam, tôi nhận thấy chìa khóa để doanh nghiệp Việt vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu chính là năng lực hội nhập thực chất - chấp nhận tiêu chuẩn cao và sáng tạo trong khuôn khổ toàn cầu. Để doanh nghiệp Việt bước vào chuỗi giá trị cao, cần chuyển vai trò từ gia công sang đồng sáng tạo. Cụ thể: Đầu tư vào khâu thiết kế - tiêu chuẩn - chất lượng bền vững cao, nơi tạo giá trị gia tăng lớn nhất; Phát triển “Global Sourcing Hub” tại các trung tâm logistics lớn gắn với cảng trung chuyển quốc tế, rút ngắn chuỗi cung ứng toàn cầu; Hành lang chứng nhận và hộ chiếu số sản phẩm (Digital Product Passport) để hàng Việt đáp ứng chuẩn ESG/CBAM của các thị trường lớn; Chương trình “Thương hiệu Quốc gia 2.0”: không chỉ cho hàng hóa, mà cả dịch vụ, du lịch và trải nghiệm văn hóa Việt - nơi mỗi sản phẩm đều mang một câu chuyện Việt. Khi thương hiệu đủ mạnh, doanh nghiệp Việt sẽ không chỉ là nhà cung cấp, mà còn dẫn dắt thị trường khu vực.

Giới doanh nhân kỳ vọng Đại hội XIV sẽ đưa ra các đột phá nền tảng: Siêu ủy ban cải cách thể chế - thủ tục, cắt 50% chi phí tuân thủ trong 3 năm; Chính phủ số - dữ liệu mở, mọi dịch vụ hành chính “once-only”; Hạ tầng đại liên kết: đường sắt tốc độ cao, trung tâm dữ liệu quốc gia, cảng hàng không & cảng trung chuyển quốc tế hiện đại; An ninh năng lượng bền vững: triển khai điện hạt nhân (SMR) song hành năng lượng tái tạo; Thị trường vốn dài hạn và bền vững cho đổi mới, hạ tầng, công nghiệp phụ trợ; Chính sách nhân tài toàn cầu - thu hút trí thức Việt kiều và chuyên gia quốc tế; Cơ chế vùng tự chủ linh hoạt, cho phép địa phương thí điểm chính sách vượt trội, cạnh tranh lành mạnh vì phát triển chung.

Tôi cũng đánh giá cao tầm nhìn của Dự thảo Văn kiện xác định khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính cho mô hình tăng trưởng mới; đồng thời định hướng phát triển các không gian tăng trưởng chiến lược như trung tâm logistics, cảng biển - hàng không trung chuyển quốc tế, khu thương mại tự do và trung tâm tài chính quốc tế. Theo tôi, điều quan trọng nhất là chuyển từ định hướng sang hành động - từ khuyến khích sang cơ chế thực thi cụ thể. Đổi mới sáng tạo cần một hệ sinh thái đồng bộ và được hỗ trợ bằng các công cụ tài chính thực chất.

GS, TSKH HỒ NGỌC ĐẠI

PHẢI COI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG LÀ RƯỜNG CỘT CỦA QUỐC GIA

Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội XIV của Đảng nêu rõ “Xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, ngang tầm khu vực và thế giới”, trong đó nhấn mạnh định hướng “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực, thể lực và phẩm chất người học”.

Tôi cho rằng đó là bước tiến quan trọng, nhưng muốn làm được, phải đổi mới tận gốc nguyên lý của nghề dạy học.

Các cuộc cải cách giáo dục trước nay vẫn theo “truyền thống” cũ: thầy giảng, trò ghi. Trong cách ấy, người thầy giỏi nhất hóa ra là người luyện thi giỏi nhất. Nhưng giáo dục hiện đại không phải là nhồi nhét trí nhớ, mà là giúp mỗi học sinh trở thành chính mình - một cá nhân độc lập, không lặp lại trên hành tinh này.

Nếu giáo dục cũ dạy trẻ “noi gương thánh hiền”, thì giáo dục hiện đại dạy trẻ xứng đáng với chính mình. Không phải học để giống ai, mà để hiểu mình là ai. Chúng ta phải chuyển từ một nền giáo dục “áp đặt” sang một nền giáo dục “khai mở”.

“Đổi mới căn bản, toàn diện” - nói cho đúng - chính là đổi mới tận nguyên lý triết học của nghề sư phạm. Câu hỏi cần đặt ra là: Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thầy không giảng? Từ “thầy giảng” sang “thầy không giảng” - đó mới thật là đổi mới căn bản. Người thầy trong giáo dục hiện đại không còn là người truyền tri thức, mà là người tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Thầy thiết kế, học sinh thi công; thầy gợi mở, học sinh tự tìm ra câu trả lời. Vượt khỏi công thức cũ “thầy giảng giải - trò ghi nhớ”, cái mới là “thầy thiết kế - trò thi công”: Trẻ em tự mình làm ra sản phẩm giáo dục cho chính mình, vì chính mình, để trở thành chính mình. Nguyên tắc sư phạm hiện đại là không đưa đến cho trẻ em sản phẩm làm sẵn. Thầy chỉ giao việc, còn trò tự làm - và chính trong quá trình ấy, các em phát triển năng lực của bản thân.

Đổi mới cách dạy học trong giáo dục hiện đại giúp học sinh phát triển năng lực bản thân.

Đổi mới cách dạy học trong giáo dục hiện đại giúp học sinh phát triển năng lực bản thân.

Dự thảo nhấn mạnh:“Chú trọng phát triển giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông.” Tôi cho rằng đây không chỉ là một nhiệm vụ, mà phải được coi là quốc sách đúng nghĩa. Tôi luôn tin rằng giáo dục là rường cột của quốc gia. Một quốc gia muốn mạnh phải nắm chắc ba lực lượng: Quân đội, Công an và Giáo dục phổ thông. Nếu quân đội giữ biên cương, công an giữ an ninh trật tự, thì giáo dục giữ tương lai dân tộc, là sự sống và sức sống của dân tộc. Phải coi giáo dục chính quy, chính thống, tinh nhuệ như hai lực lượng kia - không ai được tùy tiện can thiệp.

Một dân tộc muốn có tầm vóc trên trường quốc tế phải bắt đầu từ giáo dục. Không thể có nền kinh tế mạnh, xã hội văn minh nếu con người không được giáo dục đúng đắn. Giáo dục là bệ phóng, là gốc rễ của phát triển. Nó tạo ra những thế hệ có đủ tri thức, kỹ năng và phẩm chất để đứng vững trong kỷ nguyên toàn cầu.

Muốn hình thành thế hệ công dân toàn cầu mà vẫn giữ bản sắc Việt, phải dạy cho trẻ không chỉ kiến thức của thế giới, mà cả giá trị của dân tộc mình: Lòng yêu nước, truyền thống văn hóa, niềm tự hào về cội nguồn. Giáo dục phải giúp học sinh hiểu rằng hội nhập không có nghĩa là hòa tan, mà là mang bản sắc của mình góp phần vào sự phát triển chung của nhân loại.

Dự thảo cũng nêu định hướng “ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo”. Đây là xu thế tất yếu, nhưng cần một thái độ tỉnh táo: trí tuệ nhân tạo (AI) phải là công cụ trong tay học sinh, không phải người thầy của các em. Người thầy hiện đại có trách nhiệm hướng dẫn học sinh biết cách điều khiển, đặt câu hỏi, và khai thác AI để mở rộng hiểu biết - chứ không để máy móc dẫn dắt tư duy con người. Giáo dục phải đặt con người ở trung tâm, để công nghệ phục vụ cho sự phát triển của con người, chứ không biến con người thành phần mở rộng của công nghệ. Điều cốt lõi là dạy học sinh làm chủ công cụ ấy - để AI giúp các em trở nên thông minh hơn, chứ không thay các em suy nghĩ.

Tổ chức thực hiện: Nhân Dân hằng tháng
Nội dung : TUẤN ANH, CHÍNH BÌNH, BẢO NGUYÊN, THANH CHƯƠNG
Trình bày : PHI NGUYÊN
Ảnh : Nhân Dân, nguồn internet.