Thành tựu 40 năm đổi mới khẳng định tầm vóc Việt Nam

Trước Đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, khủng hoảng kinh tế-xã hội diễn ra gay gắt. Sau gần 40 năm, nước ta đã vươn lên trở thành quốc gia có cơ đồ vững chắc, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, vị thế quốc tế không ngừng được khẳng định.

Từ lợi thế kinh tế cảng biển, cảng Hải Phòng được kỳ vọng trở thành điểm đến toàn cầu.
Từ lợi thế kinh tế cảng biển, cảng Hải Phòng được kỳ vọng trở thành điểm đến toàn cầu.

Những thành tựu ấy là kết quả của tinh thần đoàn kết, ý chí và khát vọng vươn lên của cả dân tộc. Đây chính là nền tảng để đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển phồn vinh, hạnh phúc và hội nhập sâu rộng với thế giới.

Trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân, một số bạn bè quốc tế đã khẳng định, công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam từ năm 1986 đến nay đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội có bước phát triển bứt phá với nhiều công trình quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, góp phần làm thay đổi diện mạo đất nước và mở ra không gian phát triển mới. Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Có được thành tựu quan trọng, ấn tượng đó là do sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp thực tiễn và xu thế của thời đại.

Phát triển kinh tế mang lại thịnh vượng

Cảm nhận của ông Pallab Sengupta, Bí thư Hội đồng quốc gia Đảng Cộng sản Ấn Độ, Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổ chức Hòa bình và Đoàn kết toàn Ấn Độ lần đầu tiên đến Việt Nam năm 1985 trong khuôn khổ Liên đoàn Sinh viên Quốc tế vẫn còn vẹn nguyên. “Hồi đó, cơ sở hạ tầng còn khiêm tốn và nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp với sự tham gia quốc tế hạn chế, tuy nhiên, điều nổi bật là sự quyết tâm và nhiệt tình của người dân Việt Nam, lòng tự hào dân tộc mạnh mẽ và cam kết tái thiết và phát triển đất nước của họ”, ông trải lòng.

Và trong mỗi chuyến thăm trở lại, ông Pallab Sengupta ngỡ ngàng trước những đổi thay kỳ diệu của một đất nước ngày càng tự tin, thịnh vượng và năng động, hội nhập với thế giới. Từ những đường phố sôi động của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đến các khu công nghiệp và các trung tâm công nghệ đang phát triển, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có tốc độ tăng trưởng và hiện đại hóa nhanh chóng. Vị trí chiến lược ở Đông Nam Á, lực lượng lao động trẻ và siêng năng, cải cách thể chế mạnh mẽ, cùng khả năng quản lý kinh tế vĩ mô hiệu quả đã khiến Việt Nam trở thành “thỏi nam châm” thu hút đầu tư nước ngoài và là nút thắt quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Theo nhận định của Đại sứ Liên bang Nga tại Việt Nam Bezdetko Gennady Stepanovich, năm 1986 là dấu mốc Việt Nam bước vào một giai đoạn hoàn toàn mới. Nội dung then chốt của đường lối Đổi mới là đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài và xây dựng các xí nghiệp sản xuất có sự tham gia vốn của nước ngoài. Ngoài ra, điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh cũng được nới lỏng đáng kể.

Nhờ các biện pháp cải cách và đổi mới, sản lượng nông nghiệp đã tăng trưởng nhanh chóng và bắt đầu hình thành các ngành công nghiệp mới, bao gồm cả các ngành công nghiệp công nghệ cao. Trong đó, đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng. Trong nhiều thập kỷ, Việt Nam đã chứng tỏ là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế-xã hội cao nhất thế giới.

Đại sứ nhấn mạnh, tiến bộ đạt được không chỉ nhờ có được những lợi thế cạnh tranh tự nhiên của Việt Nam, bao gồm vị trí địa lý thuận lợi, sự ổn định chính trị trong nước và nguồn lao động giá rẻ, có trình độ cao, mà còn nhờ quan hệ hợp tác sâu rộng với các đối tác nước ngoài trên cơ sở phi chính trị hóa và cùng có lợi.

Đồng quan điểm, GS, TS Ahn Kyong Hwan (Hàn Quốc) và ông Claudio De Negri, Trưởng ban Đối ngoại Đảng Cộng sản Chile, nguyên Đại sứ Chile tại Việt Nam đều khẳng định, thành công của chính sách Đổi mới bắt nguồn từ những quyết định sáng suốt của các nhà lãnh đạo chính trị Việt Nam và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đóng vai trò là một trong những nguồn lực then chốt.

GS, TS Ahn Kyong Hwan đánh giá, Việt Nam tích cực tham gia hợp tác kinh tế với cộng đồng quốc tế và đã đạt được tăng trưởng kinh tế đáng kể (bình quân khoảng 6,3%/năm trong giai đoạn 2021-2025, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới). Quy mô GDP của Việt Nam năm 2025 ước đạt hơn 510 tỷ USD, gấp 1,47 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 trên thế giới, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD, được nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao. Những con số này minh chứng rõ, phát triển kinh tế mang lại thịnh vượng cho Việt Nam như ngày hôm nay.

Ông Claudio De Negri phân tích một điểm mạnh trong quá trình Đổi mới ở Việt Nam là sự tham gia thực chất của nhân dân, từ việc lấy dân làm gốc, xác định những thách thức kinh tế của cả nước - điều mà mỗi người dân đều tự hào là chủ thể và tham gia trong mỗi bước tiến. “Việt Nam đã chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp trở thành một trong những thị trường năng động nhất thế giới, với nền kinh tế đặt trọng tâm vào an sinh của người dân, cho phép họ tham gia vào việc xây dựng cải cách và khắc phục những hạn chế, thiếu sót”, ông Claudio De Negri nhấn mạnh.

a4.jpg
Doanh nghiệp FDI sản xuất điều hòa Daikin tại Việt Nam. Ảnh trong bài | Thành Đạt

Phấn đấu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045

Từ những đánh giá, nhận định của bạn bè quốc tế về những thành tựu của Việt Nam đạt được sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, có thể khẳng định, với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam hiện nay sẽ là nền tảng quan trọng để đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới.

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đề ra mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới, trong đó hướng tới mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; hiện thực hoá tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Nhận định về mục tiêu này, Đại sứ Bezdetko Gennady Stepanovich cho rằng, nhiệm vụ đầy khó khăn đòi hỏi cách tiếp cận đa diện và các giải pháp được cân nhắc cẩn trọng, bao gồm bảo đảm ổn định chính trị trong nước, phát triển bền vững cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng, lĩnh vực xã hội, hệ thống giáo dục và chăm sóc sức khỏe, hiện đại hóa và số hóa toàn diện, triển khai rộng rãi các sáng kiến và nhiều biện pháp khác. Đại sứ bày tỏ tin tưởng, nhân dân Việt Nam sẽ thực hiện thành công nhiệm vụ này như đã từng hoàn thành nhiệm vụ lịch sử là thống nhất đất nước cách đây 50 năm.

“Hành trình phát triển của Việt Nam kể từ khi Đảng khởi xướng công cuộc Đổi mới vừa có chiến lược, mục tiêu cụ thể, rõ ràng, vừa năng động, sáng tạo. Từ chỗ ban đầu tập trung vào tăng trưởng nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, Việt Nam đã dần tiến lên chuỗi giá trị - tiến tới các lĩnh vực điện tử, viễn thông và hiện nay là các lĩnh vực kỹ thuật số và dựa trên tri thức. Điều đặc biệt đáng chú ý là cách Việt Nam duy trì sự gắn kết xã hội và ổn định chính trị trong khi theo đuổi quá trình chuyển đổi kinh tế nhanh chóng”, ông Pallab Sengupta phân tích và khẳng định những thành tựu đã đạt được trong công cuộc Đổi mới là nền tảng vững chắc để Việt Nam cất cánh.

Nhấn mạnh định hướng phát triển của Việt Nam luôn thực tế, gắn kết kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với hội nhập quốc tế và tiềm năng phát triển bền vững của Việt Nam vẫn còn rất lớn, ông Pallab Sengupta nhận định, khi bước vào kỷ nguyên mới, Việt Nam không chỉ mong muốn trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 mà còn nhấn mạnh đến tăng trưởng bền vững và bao trùm. Tầm nhìn quốc gia như được gói gọn trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, phản ánh sự hiểu biết rõ ràng về những thách thức đương đại. Đề cập những thách thức như thiếu hụt cơ sở hạ tầng, tính bền vững của môi trường và biến động kinh tế toàn cầu sẽ đòi hỏi phải tiếp tục tập trung chiến lược, ông Pallab Sengupta tin tưởng rằng khả năng chống chịu, quản trị thích ứng và cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm sẽ giúp Việt Nam biến thách thức thành cơ hội, vượt qua giai đoạn mới này một cách thành công.

Tiến sĩ Carolus Wimmer, Chủ tịch Nhà Hữu nghị Venezuela-Việt Nam đánh giá, với những thành tựu đạt được trong tiến trình thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng của kinh tế khu vực và thế giới, ngày càng gia tăng vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu với việc tham gia 17 hiệp định thương mại tự do, ký kết hàng trăm hiệp định thương mại song phương và đa phương với các đối tác. Việt Nam có tổng kim ngạch thương mại hơn 800 tỷ USD và gia nhập nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới. Trong 3 năm kể từ sau đại dịch Covid-19, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng ổn định và dự báo tiếp tục tăng trưởng hơn 8% trong năm 2025. Đây là con số tăng trưởng ấn tượng của một quốc gia trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức như hiện nay”, Tiến sĩ Carolus Wimmer nhấn mạnh.

Có thể bạn quan tâm