1. Xúc cảm và sáng tạo thơ trong nhiều trường hợp, vốn có sẵn điểm tựa. Những chỗ dựa tin cậy và vững bền thường được tạo dựng từ những gì là thân, là thuộc của người viết. Cha mẹ, ông bà, con cái trong gia đình yêu thương, ấy là chỗ dựa thiết tha lắm để mạch cảm xúc và những ý tứ cũ, mới của câu chữ mọc lên, dường như không biết đến khi nào vơi cạn. Đó, âu cũng là lẽ thường tình, là sự phổ biến trong hành trình sáng tác, nguồn sữa huyết thống dưỡng sinh tâm hồn cho con chữ nở hoa. Ở nhà thơ - người phụ nữ Huyền Minh, khi đã đi qua mọi cung bậc ngọt ngào của lẽ đùm bọc, nâng niu từ tâm thế một người con, người cháu, một người mẹ, và rồi đây là cả vai trò người bà nữa, thì những kỷ niệm, trải nghiệm bao năm qua bên người thân có “đường băng” dài để cất cánh.
Nhưng cái hấp dẫn của tác phẩm thơ đến từ những tín hiệu mới, khác trong việc kể những điều xuất phát từ ký ức quen thuộc của bản thân và có khi cũng không quá xa lạ với nhiều người phụ nữ khác. Trong tập thơ thiếu nhi mới nhất của mình - “Mùa thơm tam giác mạch” (NXB Hội nhà văn, 2020), sống dậy mạch chảy gia đình để viết cho mình, viết từ mình cho bạn đọc nhỏ, nhà thơ Huyền Minh tìm ra những ẩn dụ, liên tưởng phong phú, có khi hóm hỉnh, ngộ nghĩnh, có khi mềm dịu, có lúc phóng khoáng, khỏe khoắn… Đó là khi tác giả miêu tả quả phật thủ mẹ mua về đặt lên ban thờ: “Có một thứ quả lạ/Trên đầu… toàn ngón tay” (Phật thủ). Là khi cảm nhận về tiết trời quê hương chuyển mùa dịu mát: “Ngõ thu giờ giăng mùng/Ngô đã se vỏ áo/Em gối cao cổng trời/Vui quê mình thay áo” (Quê mình thay áo). Là dáng hình bà trong niềm mong ngóng: “Nải chuối cong như lưng bà/Mỗi lần lặn lội mang quà thăm em” (Lưng bà)… Trong chuỗi hình ảnh sinh động đó được đan cài vào những bài thơ để nhận ra hình ảnh gia đình và những tưởng tượng của trẻ thơ sáng, đẹp, bài thơ “Vùng trời của bé” gọn gàng, nhỏ nhắn nhưng mở ra bức tranh toàn cảnh lộng lẫy:
“Bé tạc thuyền đá
Chở hoa màu gà
Chở tam giác mạch
Đi khắp muôn nhà
Mào gà trên đá
Thức gọi mặt trời
Hoa tam giác mạch
Hồng tươi núi đồi
Mắt bé dõi trông
Cánh buồm tít tắp
Lòng bé ngóng trông
Thuyền về hong nắng
Thuyền ơi ra khơi
Bình yên thuyền nhé
Vùng trời của bé
Thênh thang trước nhà”.
Có lẽ, ngoài những trải nghiệm riêng tư của đời sống gia đình, bản quán, thì sự gắn bó với quê hương Hà Giang hùng vĩ bằng những chuyến đi, những tình cảm gieo khắp các nẻo đường cao vời, heo hút giữa núi rừng trùng điệp, đã giúp cho nhà thơ - người phụ nữ Huyền Minh có được những “phản xạ nghĩ” phóng khoáng như thế.
2. Nhưng còn điểm tựa nào để tập thơ “Mùa hoa tam giác mạch” có những ý tứ vượt lên từ mặt bằng đời sống thông thường của nhịp đời thân mến, gần gũi quanh ta? Đó cũng chính là nét độc đáo rất đáng ghi nhận trong sáng tác của nhà thơ ở một tập thơ nhẹ nhàng dành cho lứa măng non.
Đó, là vẻ đẹp to lớn của đất trời, hùng vĩ của núi rừng sông suối nhưng ở trong thế kết nối với con người. Nói về sự lớn lao, kỳ vĩ của thiên nhiên, vốn đã là công việc muôn thuở và mãi mãi thách thức sự suy nghiệm của các nhà văn, nhà thơ. Ở đây, đặt trong tình cảm thương mến, những gửi gắm và ý nghĩ hòa đồng thiên nhiên với các em nhỏ, tác giả có những câu thơ, khổ thơ vẽ lên núi, mây, trời vừa rộng rãi, bề thế, lại vừa thân thuộc, quý yêu. Với “Bài ca gọi nước”, bài thơ bao quát cả sự khắc nghiệt do điều kiện tự nhiên vùng cao nguyên đá, cộng hưởng với ước mơ hồn nhiên và niềm hạnh phúc của đàn em nhỏ được chăm lo trong nhịp sống đang đổi thay tốt tươi trên miền đất khó. Thú vị là tác giả “thiết kế” bài thơ như trò chơi trốn tìm của tuổi thơ, từ điểm nhìn của bé, mọi thứ như cùng dịu lại, vui lên và dần mở ra đầy hào hứng:
“Cao nguyên khô khát
Bao thế kỷ rồi
Nước à nước ơi…
Nước trốn đâu rồi?
…
Tay bé hồng tươi
Khỏa nước đỉnh trời
Con đường Hạnh Phúc
Vui chân mọi người
…
Trên đá xanh chồi
Nụ mầm khỏe khoắn
Cảm ơn nước lắm
Nước à, nước ơi!”.
Có khi, với một vài chi tiết thông thường của nếp sinh hoạt đời sống, cũng với cái tinh thần kết nối ấy, nhà thơ khéo dẫn câu chuyện từ cái riêng mở ra cái chung rộng, xa hơn, mà vẫn giữ lấy nét hồn nhiên, chân thật làm cốt lõi. Như trong bài “Hoa cải vườn nhà” với hai khổ “trồng cải” khá dễ thương và hai khổ “tặng cải” cũng khá ấn tượng:
“Em mang ngồng cải
Lên chốt biên thùy
Tặng chú bộ đội
Canh gác nương vườn
Mong cải xanh non
Uống sương mau lớn
Gác biên cương xanh
Ấm màu đá xám”.
Lại thêm đẹp nữa, khi nhà thơ hình dung về nhịp sống lao động, sản xuất của những con người tần tảo vùng núi cao, dường như cũng nối mạch với núi cao, suối chảy nơi ấy. Bài “Lời quê” giản dị mà giàu chất tạo hình:
“Quê em
dưới Tây Côn Lĩnh
ruộng bậc thang
gối đầu nhau
…
Con suối
mang theo sắc núi
thì thầm nâng bước
chân em!”.
Cũng như vậy, là bài thơ “Đất ở núi”, mở ra biên độ đất, “khái niệm đất” đầy thân mật và xúc động, trong cái nhìn so sánh, liên tưởng hồn hậu của tuổi thơ. Đất như đã nhân hóa lên để hiểu người, thương người và nâng bước con người:
“Đất ở núi
như chiếc thang
nối đường lên trời
ngọn gió lượn quanh
thành bậc…
…
Thương mẹ
chân trần
đất chẳng mọc rêu…
…
Đêm
em thường mơ
gối bậc trăng vàng!”.
Nương con người vào thiên nhiên, nương con người vào nhau ở những vị trí, hình ảnh đặc trưng của mình, nhà thơ vẽ nên nhiều hình ảnh, chuyển động đẹp tươi, lãng mạn: “Trung thu chú đi tuần/Giữa mùi thơm lúa mới//Theo bước đèn kéo quân/Em rước lên biên giới” (Thơ gửi chú), “Xóm mây sáng sao/Quây quần bên núi/Thần Nông cặm cụi/Nheo mắt mỉm cười//Ngôi sao trên mũ/Lấp lánh bên trời/Mắt sao thao thức/Rộng dài nước non” (Xóm sao), và nữa: “Núi thích dung dăng/Chơi trò rồng rắn/Thơm vào trong nắng/Là trái thị vàng” (Nét quê).
Những câu thơ, bài thơ như thế, khiến người đọc có thể vừa hào hứng hình dung, liên tưởng và cảm nhận khá rõ dụng ý của tác giả trong mục đích tạo mạch nối các bạn đọc nhỏ với vẻ đẹp quê hương trong chiều xa rộng, choáng ngợp của không gian và trong sự mật thiết của những con người đang ngày đêm lao động, làm nhiệm vụ ở giữa không gian ấy. Đàn em thêm yêu kính núi rừng, cây trái, suối sông, đất đai… bởi ở những nơi ấy có con người, tình người nồng đượm. Và cũng thêm quyến luyến, kính trọng những con người cần lao, vững vàng, chính bởi trong họ đã có cái không khí khoáng đạt và mạch sống thẳm sâu của miền núi cao, đất vững ấy. Như món quà của bố tặng hai mẹ con ngày gia đình sum họp: “Về thăm mẹ và em/Bố tặng phong lan rừng//Tặng truyền thuyết lạ lùng/Có mắt Rồng chứa nước/Nuôi sống cây với người//Mai bố lên biên giới/Em ước được theo cùng”.
Như chính hai câu thơ cuối ấy của bài thơ “Bố em”, với cả tập thơ này, chúng ta hình dung những vẻ đẹp thiên nhiên và tình người hòa quyện có thể mang sức lay động gợi mở, mời gọi, để các em “đến với quê hương” rộng lớn, xa và sâu của mình, ngay khi đang được bồi đắp, lớn lên ở giữa quê hương ấy. Bởi rõ ràng, có những “mùi thơm tam giác mạch” qua tháng năm, qua lịch sử mà không phải người con nào của vùng cao nguyên đá có thể sớm cảm nhận được hết.
Vươn xa, đi nữa và tìm đến, ngay trên chính quê hương mình. Hành trình ấy được bồi đắp từ tình gia đình êm ấm, từ mẹ tần tảo, từ bà hát ru, từ hoa quả và tiếng trống Trung thu, từ sương mây hồng tím giăng trên cao, từ đất đá chen chân trùng trùng điệp điệp, từ suối chảy thành bậc và những vạt tam giác mạch hồng tươi bừng nở… Nhà thơ hé cửa chuyến du ngoạn diệu kỳ ấy cùng bạn đọc nhỏ qua một “Mùa thơm tam giác mạch”. Biết yêu miền đất của những thảo thơm và rộng dài phóng khoáng này, mỗi người sẽ trở thành một mùa thơm cho cuộc đời mình, cho quê hương!