Khởi nghĩa Trà Bồng và cuộc Ðồng khởi 1959 - 1960, bước ngoặt chiến lược của cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Nghị quyết ấy đã làm cho nhân dân miền Nam "mở cờ", đáp ứng được những đòi hỏi khách quan, tất yếu của tình hình sôi sục, bức bách lúc bấy giờ. Trước đó, chúng ta đã không kịp thời nhận thức đúng tình hình miền Nam và nguyện vọng của nhân dân miền Nam, đã có chiều hướng cho rằng đấu tranh bằng phương pháp hòa bình, thi đua hòa bình là duy nhất đúng.

Khi đã không nhận thức đúng thực tiễn thì không thể nào có phương hướng giải quyết đúng đắn. Ý dân có trước, ý Ðảng có sau, điều đó cũng thường tình, có sao đâu, bởi lẽ hành động của nhân dân chính là thực tiễn. Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò quan trọng của lý luận, nhưng thực tiễn nhiều lúc mở đường đi trước rồi sau đó mới đến sự nhận thức thực tiễn.

Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra khi chi bộ Ðảng trong nhà tù Ba Tơ chưa nhận được chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Trung ương. Có đồng chí băn khoăn: Chưa nhận được chỉ thị của cấp trên, chưa bắt được liên lạc, vậy chúng ta có nên khởi nghĩa không? Bí thư chi bộ lúc ấy là đồng chí Trương Quang Giao đã có ý kiến: Tình hình hiện nay đòi hỏi phải khởi nghĩa, khởi nghĩa thắng lợi thì sẽ bắt được liên lạc với cấp trên.

Anh Vũ Tùng Vi có lý khi nói rằng: Ðề cương Ðường lối cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn đã củng cố thêm quan điểm bạo lực cách mạng của Tỉnh ủy Quảng Ngãi. Quan điểm bạo lực cách mạng, tiến công cách mạng của Quảng Ngãi đã có sẵn, nung nấu và can trường, trước khi có "Ðề cương đường lối cách mạng miền Nam". Quan điểm bạo lực cách mạng, tiến công cách mạng ở Quảng Ngãi có từ truyền thống, từ ý tưởng "Nếu kẻ địch không để cho chúng ta trở về bằng ngọn cờ hòa bình thì chúng ta sẽ trở về bằng ngọn cờ Quyết chiến quyết thắng" vang vang trên khu tập kết 300 ngày, làm rung động lòng người sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhiều người không phải không bất ngờ lúc được tin cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi nổ ra chỉ sau khi có Nghị quyết Trung ương 15 một tháng rưỡi. Làm sao trong một tháng rưỡi mà chuẩn bị được một cuộc khởi nghĩa lừng lẫy và đồng loạt đến thế?

Bài học đi sâu vào thực tiễn, bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn, chăm chú lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên, đánh bạt những tư tưởng quan liêu, trì trệ trong Ðảng vẫn là bài học nóng hổi cho ngày hôm nay khi chúng ta đang khai phá sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nước nhà theo con đường xã hội chủ nghĩa, khi chúng ta tham gia vào nền kinh tế thế giới, hợp tác quốc tế có lợi cho ta, tích cực xâm nhập vào thị trường thế giới trong hoàn cảnh chủ nghĩa tư bản đang ráo riết thúc đẩy toàn cầu hóa theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

Từ thực tiễn mà đề ra đường lối đòi hỏi tinh thần độc lập tự chủ rất cao. Ðộc lập tự chủ là chấm son chói lọi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ năm 1925, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói khi nhiều đồng chí trong Quốc tế cộng sản nhấn mạnh phải làm cách mạng ở chính quốc trước mà coi nhẹ cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, rằng: làm như vậy là các đồng chí đánh rắn đằng đuôi. Tháng 8-1945, khi nhiều nước thuộc địa và bị phụ thuộc làm theo quyết định của các nước Ðồng minh thì Hồ Chí Minh kêu gọi "lấy sức ta mà giải phóng cho ta", phải giành lấy chính quyền trước khi quân Ðồng minh vào.

Những năm 60 của thế kỷ trước, trong khi người ta rắp tâm hòa hoãn, thi đua hòa bình, sợ "một đám lửa có thể làm cháy cả cánh đồng", Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta đề xướng "vừa gìn giữ hòa bình vừa đẩy mạnh cách mạng".

Chính cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi đã gan góc tuyệt vời, nêu cao và học tập tinh thần tự chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi đã nhận ra chân lý, nhận ra thực tiễn, nhận ra nguyện vọng của nhân dân thì kiên quyết đột phá, mặc cho mọi sự cản trở, "không chao nghiêng dù gió giật tự phương nào". Cho nên, dù cho một số đồng chí lãnh đạo và một số Ðảng bộ dè dặt, băn khoăn, "không cho phép", phê phán là khởi nghĩa non, dù cho ban đầu là chống bầu cử Quốc hội của Mỹ - Diệm, dù cho có đồng chí bị kỷ luật hay không bị kỷ luật, thì Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi cùng với cuộc đồng khởi vĩ đại 1959 - 1960 đánh dấu một bước ngoặt chiến lược trên chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Khởi nghĩa thường diễn ra dưới hai tình huống: Chủ động tấn công và chủ động phản công. Có khi trong chủ động phản công như Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi chỉ ước đoán được đại thể mà chưa có thể ấn định được cụ thể thời gian và địa điểm mở đầu.

Như mọi cuộc đột phá, Khởi nghĩa Trà bồng và miền Tây Quảng Ngãi không chỉ giáng một đòn có tính chất chiến lược vào bọn Mỹ - Diệm mà còn đánh một đòn có ý nghĩa quyết định đối với những quan điểm mơ hồ, những xu hướng cơ hội, hữu khuynh trong Ðảng lúc bấy giờ.

Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi là vĩ đại, bởi chính nó là một hành động nhận thức vĩ đại, hành động nhận thức vĩ đại ấy đã nhận thức bằng hành động một cách sâu sắc nhất, gốc gác nhất, bản chất nhất chủ nghĩa đế quốc Mỹ muốn tiêu diệt trào lưu yêu nước và cách mạng ở miền Nam bằng biện pháp bạo lực, chiến tranh một phía.

Chủ nghĩa đế quốc gắn liền với chiến tranh và khủng hoảng.

Nhìn lại thế kỷ 20, lúc đó chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, ngay từ năm đầu, đế quốc Anh đổ bộ lên vùng đất của người Bô-e ở cực nam châu Phi để chiếm đoạt cao-su và các thứ quặng còn vùi sâu trong lòng đất. Nếu lấy năm 1999 là năm cuối cùng của thế kỷ 20, thì trong năm cuối cùng đó, ngày 25 tháng 3 Mỹ và mấy nước NATO tiến công Nam Tư. Người đương thời khó mà quên 79 ngày đêm dữ dội ấy, tiếng khóc thét của trẻ con, hình ảnh những đoàn người Nam Tư đứng trên chiếc cầu ở trung tâm thành phố nói với bom đạn Mỹ: Ðây là Tổ quốc của chúng tao, chúng tao sẽ cùng chết với chiếc cầu này.

Giữa hai cuộc chiến tranh mở đầu và khóa đuôi của thế kỷ 20 là hai cuộc đại chiến thế giới. Người ta đã tính bình quân sau chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc cho đến cuối thập kỷ thứ 9 của thế kỷ 20, hằng năm có 4,3 cuộc xung đột vũ trang. Trong thập kỷ cuối cùng, chỉ tính từ 1990 đến 1996, sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu tan rã, trong bảy năm, mỗi năm thế giới nổ ra 13 cuộc chiến tranh với quy mô khác nhau.

Còn khủng hoảng? - Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1929 - 1933, cuộc khủng hoảng mà ký ức tuổi thơ còn đọng lại một đoạn văn miêu tả: Nước biển Ðại Tây Dương từ mầu lục biển đã biến thành mầu sữa nhạt. Do khủng hoảng thừa, bọn tư bản độc quyền đã phải đục các lon sữa hộp quẳng xuống biển. Chỉ tính từ năm 1973 cho đến cuối thế kỷ, trong vòng hơn 25 năm, đã xảy ra tám cuộc khủng hoảng lớn. Khủng hoảng dầu lửa 1973 - 1974 và 1979 - 1982, suy thoái kinh tế 1981 - 1983, khủng hoảng nợ Mỹ la-tinh 1982 - 1986, khủng hoảng thị trường chứng khoán 1987, khủng hoảng tiền tệ châu Âu năm 1992 - 1993, khủng hoảng tài chính ở Mê-hi-cô năm 1994 và khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Ðông - Nam Á và Ðông Á năm 1997.

Cuộc khủng hoảng 1997 xảy ra giữa lúc đài và báo các nước đang liên tiếp đăng những bài ngợi ca không tiếc lời những con rồng châu Á, về con đường và cách đi "kỳ diệu" của các nước này, nước nọ. Bởi thế mà cuộc khủng hoảng ấy là cuộc khủng hoảng bất ngờ nhất, ít ai dự báo được, và là cuộc khủng hoảng lớn nhất trong 50 năm qua, thiệt hại ước tính 2.000 tỷ USD.

Còn cái năm đầu tiên của thế kỷ 21? Chậm hơn một chút, so với thế kỷ 20, không phải là sau chín ngày mà sau chín tháng, thế kỷ 21 lại bắt đầu với một cuộc chiến tranh mà người đương thời gọi nó bằng nhiều tên, do tầm nhìn khác nhau, ý tưởng khác nhau. Chiến tranh trả đũa, chiến tranh chống khủng bố, chiến tranh lật đổ, chiến tranh xâm lược, chiến tranh của một liên minh "đồng sàng dị mộng", chiến tranh nhằm để mở rộng chiến tranh, chiến tranh thực hiện quyền uy của kẻ tham vọng đóng vai trò siêu cường duy nhất thế giới.

Các bậc tiên tri đương đại mang tên "Những nhà dự báo" là những tài năng lớn. Nhưng không một ai dự báo cái xảy ra trong năm đầu tiên của thế kỷ lại là một cuộc chiến tranh, một kiểu chiến tranh mà sức khoan, phạm vi phát quang và chiều cao của các cột khói bom hạng nặng dội xuống ở Áp-ga-ni-xtan, không một cuộc không kích bằng vũ khí thông thường nào trước đó so sánh bằng. Tri thức, khoa học và kỹ thuật do con người tạo ra. Nhưng, quái ác thay, trong xã hội còn giai cấp và đối kháng giai cấp, cái khoa học - kỹ thuật ấy, do những lợi ích giai cấp khác nhau vừa có thể mang lại cái thiện, cái hạnh phúc vô ngần, lại có thể đem đến cái ác và quằn quại, không hề bớt đi, ngược lại ngày càng tăng thêm cùng với khoa học - kỹ thuật.

Thế kỷ 21 dài đằng đẵng này, còn hơn 90 năm nữa. Cuộc đấu tranh của loài người tìm đến hạnh phúc mong được sống tốt đẹp và sung sướng đã và đang sinh ra những vĩ nhân, cùng vô số những con người lương thiện "lấy lòng thương người dưng làm của cải". Cùng một lúc, sự chống lại nhân loại cần lao cũng sinh ra những quái vật.

Vì vậy, chiêm nghiệm lịch sử về Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi, phải chăng, trong khi làm vô số cái gọi là sách lược, cần nhận ra một cách sâu sắc nhất, gốc gác nhất, bản chất của các thế lực thù địch và cuộc đấu tranh của họ chống độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, hạnh phúc nhân dân? Thẳng thắn chỉ rõ mọi chiều hướng mơ hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác về bản chất các thế lực thù địch là vì như thế. Âu cũng là để nhớ lại lời người thầy Nguyễn Mộng Tuân dạy Vua Lê Thánh Tông: Lúc qua sông rồi thì phải nhớ nỗi lo khi chưa qua sông.

Có thể bạn quan tâm