Bên trong cấu trúc móng trọng lực là bể chứa 1,3 triệu thùng dầu thô. Không những là dàn khoan lớn nhất, Hai-bơ-nia còn là cấu trúc nhân tạo lớn nhất đại dương hiện nay.
Mỏ dầu Hai-bơ-nia nằm giữa biển, cách vùng Niu-phao-len của Ca-na-đa hơn 300 km về phía đông đông nam, thuộc sở hữu chung của một số tập đoàn dầu khí lớn. Giàn khoan này trụ vững giữa môi trường cực kỳ khắc nghiệt, thường xuyên có sóng lớn, sương mù, băng giá, bão tố, do đó người ta phải "cột chặt" nó trên một GBS cắm sâu xuống đáy biển 80 m. Chiều cao của giàn khoan lên tới 224 m, xuyên vào các tầng mây thấp. Nó chẳng khác một hòn đảo bê-tông có mép răng cưa bên ngoài để chiến đấu với những tảng băng trôi.
Phần nổi giàn khoan Hai-bơ-nia chứa các thiết bị khoan, máy móc và các đồ dùng, cùng với khu nhà làm việc cho khoảng 185 người. Công suất thiết kế của giàn khoan này tối đa 230 nghìn thùng dầu thô mỗi ngày. Phần nổi bao gồm năm siêu mô-đun, trong đó, mô-đun dịch vụ công cộng chứa các thiết bị phục vụ cho phát điện, hệ thống sưởi, thông gió, điều hòa không khí và phân phối nước. Mô-đun phòng ở cung cấp nơi ăn uống, ngủ nghỉ cho những người làm việc ngoài khơi, văn phòng và các khu vực hội họp. Ở đây còn có nơi trú ẩn an toàn tạm thời trong trường hợp khẩn cấp, có lắp đặt hệ thống cung cấp điện khẩn cấp, thông tin liên lạc vô tuyến và các cơ sở y tế. Ngoài ra, nó còn có trạm xuồng cứu sinh, sân bay lên thẳng và hệ thống sơ tán bằng trực thăng lên thẳng.
GBS nằm trên đáy đại dương, cao 111 m và có khả năng tích trữ 1,3 triệu thùng dầu thô trong thùng chắn cao tới 85 m. Phải mất năm năm mới xây xong GBS. Nó được thiết kế đặc biệt để chịu được tác động của băng biển và các tảng băng trôi. Tất cả việc sản xuất, tích trữ, vận tải và giao thông được thiết kế để tránh khả năng tràn dầu. GBS có một bức tường đá cao 15 m được thiết kế và gia cố đặc biệt để bảo vệ các ngăn bên trong. Giàn khoan có thể chịu được tác động của một tảng băng sáu triệu tấn, mặc dù thông thường các tảng băng trong khu vực Hai-bơ-nia khá nhỏ, chỉ khoảng 300 nghìn tấn, do độ sâu của vùng nước nông này chỉ là 80 m.
Công việc sản xuất bắt đầu vào ngày 17-11-1997 và Hai-bơ-nia trở thành giếng dầu thu được nhiều nhất ở Ca-na-đa với mức sản xuất ban đầu vượt quá 50 nghìn thùng dầu/ngày từ một giếng. Một đội tàu chở dầu khổng lồ chuyên dụng có trọng tải 127 nghìn tấn liên tục di chuyển như con thoi giữa giàn khoan và địa điểm trung chuyển trên bờ gần một nhà máy lọc dầu.
Luôn luôn có ít nhất một tàu hỗ trợ hậu cần thường trực tại giàn khoan để cung cấp vật tư và cấp cứu tại chỗ. Ngoài ra còn một số tàu có nhiệm vụ kéo những tảng băng nhỏ và vừa trong mùa xuân và mùa hè để ngăn ngừa va chạm với giàn khoan. Các tảng băng trôi sẽ được xử lý khi còn cách giàn khoan 20 km. Thông thường có 280 người làm việc ba tuần trên giàn khoan và ba tuần trên đất liền, họ di chuyển giữa giàn khoan và đất liền bằng máy bay lên thẳng. Thỉnh thoảng giàn khoan này được sử dụng để tiếp nhiên liệu cho máy bay lên thẳng tìm kiếm cứu hộ khi thực hiện những chuyến bay tầm xa ở Bắc Ðại Tây Dương.
Tác giả của công trình vĩ đại này là một kỹ sư người Pháp gốc Việt, ông Phạm Ngọc Quỳ. Giàn khoan Hai-bơ-nia từng được Tạp chí Time bình chọn là một trong tám kỳ quan mới của thế giới năm 1994.
HÀ HỒNG HÀ