Ăn cái Tết Nguyên đán xong, làng Gồ Cả của Hưng náo nức chuẩn bị vào đám mồng Mười tháng Hai ta. Năm nay, làng mở hội to lắm. Ðã có thông báo trên màn ảnh nhỏ và Ðài Tiếng nói Việt Nam để con cháu xa gần và khách thập phương về dự.
Các câu chuyện ở đám hiếu, đám hỷ, ở ngoài đồng, ngoài bãi, người ta chỉ bàn về đám làng năm nay. Người ta phán đoán giải nhất nấu cơm thi, giải nhất bắt vịt về ai và dòng họ nào vinh dự có con cháu nấu cơm giỏi, bắt vịt tài. Người ta kháo nhau, nhà ông Phượng họ Lý, ông Ðịnh họ Ðỗ, ông Ninh, ông Chiêm, ông Giảng họ Ðào, ông Chính họ Dương, ông Vạn, ông Tuệ họ Nguyễn... mua đăng ngăn từng khúc sông Cù cho con luyện chèo thuyền, bắt vịt. Rồi ông Ðào, ông Ngạn họ Phạm, ông Tùy Thế, ông Phong, ông Túc họ Ðào cũng ngấm ngầm cho con, cho cháu luyện nấu cơm. Ðội trống, đội chiêng đánh inh ỏi cả làng. Ðánh thật bình tĩnh, nhịp nhàng mà vẫn giục giã, sôi động như tiếng trống, tiếng chiêng xung trận thật sự. Các già làng nhắm mắt, nghiêng tai nghe xem tiếng chiêng, tiếng trống ấy là của con nhà nào.
Trong gia đình, Hưng là anh cả gương mẫu. Ðang học dở lớp mười một, nhà neo, mẹ đặt vòng cai đẻ ốm xọng cả năm. Hưng chán, bỏ học ở nhà làm đồng đỡ bố mẹ. Rồi đi bộ đội. Hết nghĩa vụ, về đánh xe bò kéo. Mới đầu Hưng theo Toán, sau tách ra. Hưng mua vôi, mua đá ở làng chở ra vùng Kẻ Canh, Kẻ Vẽ, Kẻ Ðăm, Kẻ Dầy, Kẻ Trèm, Kẻ Tó, đổ. Xong hôm nay, lận luôn cho ngày mai. Hưng mua bán thật thà, chất phác, cân đủ, chất lượng tốt, chỉ lấy công làm lãi. Hưng làm không hết việc. Ðược bao nhiêu tiền lãi trói tròn đưa cho mẹ. Hôm nào Hưng mệt, thằng em đi thay, Hưng lo nó ba trợn ba trạo, cân đo không đủ, vôi lọc không kỹ thì mất khách. Còn mẹ lại sợ nó ăn chặn tiền lãi, cái nết của Hưng ai cũng quý. Những người có con gái đến thì cũng thích Hưng. Nhưng Hưng lại không dám mở miệng. Còn đám con gái thì giữ thế, ai lại chủ động thổ lộ tình cảm với con trai. Thế là Hưng "côi cút" đến bây giờ.
Hưng không thể biết cái Thắm, mồ côi cha mẹ từ bé, làm công cho lò vôi ông Hán, hằng ngày vẫn nhặt vôi đổ lên xe bò hộ Hưng, thầm yêu vụng nhớ Hưng.
Tục nấu cơm thi, bắt vịt, làng Gồ Cả bỏ từ lâu. Hầu hết những bậc anh tài có nhiều kinh nghiệm đã về nơi chín suối, cho nên bây giờ phải lập lại từ đầu. Từng đôi, từng cặp, nồi nào vung ấy, trai thanh nữ tú khác dòng họ, tự ghép vào nhau. Ðám xong, phần lớn đều nên vợ, nên chồng. Những người thắng cuộc được nhà chức trách sở tại trình lên quan trên. Họ được sung vào đội quân tinh nhuệ của triều đình và được hưởng lương rất hậu. Các cụ vẫn truyền lại ngày xưa làng có ông Cả Vỹ nhà nghèo, tấc đất cắm dùi không có. Ðêm đêm ông thường bơi thuyền qua sông Cù sang làng ngoài ăn cắp ngô, lúa, vịt, gà. Ông lại có tài nghi binh, ngụy trang, giấu thuyền dưới nước rất giỏi, đố ai tìm thấy. Năm ấy, sau khi giành giải nhất hội thi bơi thuyền bắt vịt, ông được tuyển vào đội quân thủy của nhà Trần. Dưới sự chỉ huy mưu trí của tướng Trần Khánh Dư trong trận mai phục đánh thuyền lương quân Nguyên, ông Cả Vỹ đã cùng đồng đội mình bắt được tướng giặc là Ô Mã Nhi. Ông được vua Trần ban thưởng rất nhiều tiền bạc. Giải ngũ về làng, ông đem tiền tậu hai trăm mẫu ruộng chia cho người nghèo và xây cái cổng làng ở phía đông rất to, để vừa làm điếm canh đê theo dõi mực nước lên mùa lũ, vừa là pháo đài chống thủy quân giặc từ sông Cù tiến vào. Cổng có hai chữ nho "Quân Thủy" đắp nổi nên gọi là cổng Quân Thủy. Ðời sau nối đời trước, con cháu ông Cả Vỹ tôn tạo cổng Quân Thủy...
Chiều hôm ấy, Thắm về muộn, tiết trời hanh khô. Rét đậm. Thắm quấn quần áo cũ đầy người, đầu bịt kín bằng chiếc khăn đen. Bụi vôi bám mốc thếch áo quần, da chân, da tay. Nhìn Thắm chỉ rõ hai con mắt nâu lóng lánh, sáng như mắt thỏ. Thắm đi qua chỗ Hưng đứng nhìn ra đường, hỏi giọng ướt rượt: "Anh Hưng ơi, anh ngóng ai mà buồn thế ?". Hưng lúng túng trong miệng, da mặt đỏ dậy đến tận mang tai. Thắm bảo "Anh Hưng ơi, em hỏi thế mà anh cũng đỏ mặt?". Hưng cảm thấy nóng bừng hai gò má, đang định tháo lui, Thắm đã lại lên tiếng: "Anh có thích nấu cơm thi với em không?". Hưng đang buồn nẫu ruột, lại ngượng nữa, nên chặc lưỡi: "Nấu thì nấu". Thắm hỏi: "Anh có sợ nấu cơm thi với em không?". Hưng bảo: "Sợ gì". Thắm bảo: "Tối mai chúng mình tập nhé". Hưng hỏi: "Còn gạo, nước và củi ?". Thắm bảo: "Ðể em lo. Anh nhớ mang theo cái bật lửa ga thật tốt nhé".
Mẹ thấy Hưng tết quang cứ mừng thầm, lại vừa lo. Ðoán già đoán non mãi. Không biết con bé nào hẹn nấu cơm với thằng Hưng. Ðược con nhà tử tế còn phúc. Chứ phải đứa hư thì thật tội cho nó. Nó hiền lành, ngoan nết. Lạy trời, lạy Phật đừng làm khổ con tôi.
Thắm tắm rửa sạch sẽ bằng xà phòng thơm Hoa Nhài, lấy bàn chải giặt đánh rửa móng tay, móng chân sạch hết mốc vôi và diện bộ đồ ngủ mầu hồng nhạt mà bà chủ thải cho, có những bông hồng nhung to bằng bàn tay, bên ngoài khoác thêm chiếc áo gió vàng, trông cô rực rỡ hẳn.
Hưng bí mật đưa Thắm ra ngoài bãi, chui vào gò đất nằm lọt thỏm giữa ruộng ngô xuân.
Ðêm trăng suông. Giá lạnh. Hai đứa ngồi bó gối, xuýt xoa giữa đỉnh gò. Thắm bảo: "Em nghe nói làng sẽ ra tình huống là phải đun bằng củi tươi và đi qua đường sá gập ghềnh". Hưng bảo: "Củi tươi thì đun thế nào được". Thắm cười khinh khích bảo: "Thế mà đun được mới tài". Thắm mở cuộn giấy báo lấy ra mấy khúc mía bảo: "Ðây là củi tươi. Họ bảo các cụ sẽ phát cho mỗi tốp mấy cây mía để đun đấy. Giờ, chúng mình ăn mía đi. Anh phải hít cho kiệt nước bã trắng như bông, nở phồng lên là đun được. Thiên hạ vẫn chế bã mía Kẻ Gồ biết cựa. Trước cứ nghĩ làng mình kiệt,xấu hổ quá. Bây giờ mới biết là cái thói quen có từ hội nấu cơm thi".
Vừa nhí nhách nhai mía, Thắm vừa tranh thủ kiểm tra chiếc quang treo nồi. Thắm bảo: "Anh phải chọn dây thép cứng thêm tý nữa. Làm sao cho dây ôm chặt lấy nồi. Chúng mình chạy thật nhanh và có không may vấp ngã, nồi cũng không thể văng ra được. Còn cái để làm bếp phải to hơn mới đựng được nhiều than. Ðục thêm mấy cái lỗ cho nó hút gió và để cách đít nồi vài đốt ngón tay thôi, ngọn lửa mới không bị tạt mất...". Thắm năn nắn mấy chiếc bã mía của Hưng, bảo: "Vẫn còn dối. Anh phải hít thêm tí nữa...". Thắm đổ gạo vào nồi, róc nước trong chiếc ca nhựa vo cẩn thận. Thắm bảo: "Anh Hưng bật lửa lên cho em nhóm bếp". Hưng hỏi: "Ðã phải chạy chưa?". Thắm bảo: "Ðể em nhóm xong bếp đã. Từ tối mai phải vừa chạy vừa nhóm bếp đấy".
Hưng xách bếp chạy quanh, rồi chạy cắt ngang, cắt dọc quả gò. Thắm cởi áo gió, chạy theo Hưng, bỏ củi vào bếp. Hưng mỏi tay trao lại nồi cho Thắm. Mấy lần Hưng bị vấp, củi lửa bắn tung tóe ra ngoài. Nồi cơm chao nghiêng đi, nhưng nắp nồi vẫn được Thắm cố định chặt bằng chiếc khuy quang, nên nước không bị sánh ra. Cái khó nhất lúc cơm sôi là phải rút lửa kịp thời, nếu không, nước sẽ trào ra tắt bếp, phạm luật...
Hôm nay, nồi cơm còn hơi gẩm và chưa thật xuê lắm. Nhưng Thắm và Hưng rất vui. Rất đói. Hai đứa bốc cơm thổi phù phù, ăn với muối rang ngon không thể tả. Thắm bảo: "Chúng mình cố gắng luyện nấu cơm. Còn bơi thuyền bắt vịt thì em chấp". Hưng bảo: "Ðừng nói phét". Thắm cười rích rích bảo: "Anh không tin em à? Cái năm đầu đi ở ngoài Hà Nội, suốt ngày em bơi thuyền thúng, hái rau muống trên sông Tô Lịch nhé. Cái quan trọng là người chèo phải ngồi cho cân, cho chắc và xử trí thật nhanh khi thuyền bị chao". Hưng bảo: "Có phải chỉ bơi thuyền thôi đâu. Còn phải bắt vịt nữa". Thắm nói: "Ai chả biết. Năm đi ở ngoài Ðăm em đã xem họ bơi chải. Anh đã nghe nói bơi Ðăm bao giờ chưa?". Hưng bảo: "Chưa". Thắm cười: "Bơi Ðăm, rước Giá, hội Thầy là vui lắm. Mà vui thật. Mỗi thuyền mấy chục tay chèo, mà sao họ bơi đều thế chứ. Trăm người như một nhé. Chính bơi thuyền bắt vịt còn dễ hơn. Không phải hiệp đồng với ai. Cái quan trọng là phải đoán cho bằng được con vịt vằn, vịt đen... nó ngụp một hơi được bao nhiêu sải và nó ngụp về phía nào. Thế là mình bơi thuyền đón lõng, mới chộp được". Hưng bảo: "Thắm nói như thánh". Thắm cười: "Chứ lại không?" Hưng hỏi: "Thắm phải đi ở bao nhiêu năm". Thắm nói: "Mười năm, bảy chủ. Bốn chủ nhà quê, ba chủ Hà Nội".
Thắm rân rấn nước mắt. Lặng người trong giây lát...
Hưng nói cắt ngang ký ức nặng nề của Thắm:
"Dạo bố mẹ em bị tai nạn mất anh cũng biết. Bao nhiêu người khóc. Cả làng thương em. Hình như dạo ấy em đang học lớp hai". Thắm rưng rưng, bảo: "Ðúng thế. Em phải bỏ học đi từ năm tám tuổi. Ôi, ăn xong lại thấy rét quá. Rét từ trong ruột rét ra. Anh rót nước cho em rửa tay đi. Ôi giời ơi, buốt tay quá. Anh cho em ủ nhờ một tý". Hưng bảo: "Khôn thế?" Thắm nũng nịu: "Chóng em bảo cái này". Hai tay Hưng ôm chặt lấy đôi tay giá lạnh run bần bật của Thắm. Hưng nói: "Rét đến đâu mà run ghê thế?" Thắm nói: "Em rét". Rồi đột ngột quay người, ôm choàng lấy đôi vai Hưng và chủ động hôn Hưng. Sau chút bàng hoàng, Hưng ghì chặt Thắm vào lòng... thấy váng vất bởi thứ hương vị lạ lùng mềm mại thơm đến rạo rực.
Các cụ già làng bảo, tục nấu cơm thi, bơi thuyền bắt vịt ở làng Gồ Cả có từ đời nào không ai rõ. Các văn bia đều không thấy viết. Tấm bia ký thần phả chép lai lịch nhà Thánh, đặt trong hậu cung, cũng bị người ta đập bỏ, còn sót một mảng, ông Tý Toét khuân về làm cầu ao. Năm 1989, làng Gồ Cả đề nghị xếp hạng ngôi đình thượng, kiến trúc đặc trưng của thế kỷ XVII, theo kiểu giá chiêng kẻ suốt, ông Tý Toét mới lôi lên trình làng. Mảnh bia sót lại đó chép lời truyền dạy của Ðức Thánh rằng: "Nước Ðại Việt ta, biển rộng, sông dài, nên con cháu phải nối đời luyện tập võ nghệ, cung kiếm, luyện tay chèo lái, nấu cơm hành binh thần tốc cho tài...".
Ngày xưa, con trai dự thi mặc y như lính dõng, đầu đội nón chóp nhọn, chân quấn xà cạp, còn con gái thì yếm trắng, váy sồi, thắt bao xanh.
Bây giờ nhất loạt mặc quần áo bộ đội mới thực tế. Ban tổ chức tuyên bố, ai đoạt giải nhất, nhì, ba sẽ được tặng luôn bộ quân phục cùng giày, tất, mũ cối làm kỷ niệm.
Thắm mặc bộ quân phục nữ rộng thùng thình, ai trông cũng buồn cười. Cô bảo Hưng: "Anh phải bình tĩnh nhé, cứ mặc cho chúng nó chạy. Mình cứ đi thư thả thôi. Ðến khi chúng nó mệt bã ra thì mình chạy nước rút".
Ðường hành binh thần tốc vòng quanh ao đình vượt qua trập trùng những đống đá hộc xếp cao tựa những quả núi nhỏ, rồi đi vào đường làng, ngỏ hẻm, bờ ao, đầy gai góc và gốc tre. Sau đó quay về, đi qua cái cầu bằng gỗ cốp-pha bắc qua ao đình là kết thúc. Thời gian vừa đủ chín nồi cơm ba người ăn khỏe. Không thật nhanh chân, không thể về tới đích.
Tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng ốc, tiếng tù và dồn dập, thúc giục như rót thẳng vào tai. Người xem đông như kiến. Tiếng reo hò, la hét, vỗ tay ầm ĩ, chẳng rõ khen ai, chê ai. Mỗi cặp dự thi được cấp ba cây mía, mỗi cây dài hơn hai mét làm củi.
Thắm lặc lè vác ba cây mía trên vai, Hưng bảo: "Em chịu khó xách nồi để anh vác mía cho". Thắm nói: "Không cần. Anh nhớ đi thư thả thôi". Thắm cầm trong tay cây mía, đập mạnh vào thành ao đình cho gãy làm đôi. Cô bình tĩnh tách vỏ, bó hai cây rưỡi vác trên vai. Nửa cây còn lại, cô vừa đi vừa hít vừa nhóm bếp. Tiếng reo cứ rộ lên: "Cái Thắm khôn quá. Chúng mày ơi, nhìn cái Thắm mà rút kinh nghiệm này".
Vượt "rặng núi đá" trùng trùng quây quanh ao đình, con ông Phong, ông Túc họ Ðào, con ông Tùng họ Nguyễn Ngọc bị đá đổ, ngã trầy gối, xước mặt, phải quăng nồi, vứt củi. Mới có chặng đầu, sáu "chiến sĩ" đã bị chấn thương. Ðến đoạn vượt bờ ao khúc khuỷu thì con ông Chỉ họ Phạm bị cơm sôi trào tắt bếp. Nhóm mãi không cháy. Ðành bỏ cuộc. Còn con ông Tăng họ Nguyễn Xuân thì không may vấp gốc tre, lao cả người lẫn nồi xuống ao. Thắm và Hưng sợ xanh mắt. Thắm luôn mồm nhắc Hưng: "Anh đi cho cẩn thận. Thà chậm chắc còn hơn". Ðến khi vượt cầu treo độc mộc, thì con ông Tăng, con ông Túy giành nhau vượt lên, Thắm bảo: "Anh Hưng ơi, ngồi hẳn xuống cho bọn nó đi. Cái quan trọng là cơm có ngon không? Chứ về trước mà cơm sống, cơm khê thì ăn gì?".
Con ông Tăng, ông Túy thi nhau bước qua đầu Hưng và Thắm. Nhưng ngay sau đó, họ lại tranh nhau lên trước. Thế là cả bốn đứa ngã ùm xuống nước. Những trận cười giòn giã, những tràng vỗ tay râm ran như pháo nổ cứ nối nhau dậy lên như sóng triều, át cả tiếng trống trận. Thắm liếc nhìn bọn nó lóp ngóp dưới ao, hãi quá, bảo Hưng: "Anh bước cho cẩn thận. Ðứa nào muốn vượt, cứ ngồi xuống cho nó đi. Cơm của chúng mình chín rồi. Hơi bốc nghi ngút. Thế mà vừa gọn ba cây củi".
Qua cầu, Thắm mừng run chân, tưởng không thể bước thêm được nữa. Cô cùng Hưng trịnh trọng bê nồi cơm nóng bỏng, kính cẩn dâng lên bốn cụ thượng làng mặc quần áo đỏ, đội khăn xếp đỏ, hai bàn tay úp lên đầu gối ngồi ngay ngắn, uy nghi.
Hàng nghìn cặp mắt đổ dồn vào nồi cơm của Thắm - Hưng. Trưởng ban tổ chức cuộc thi, ông Trưởng ban Thông tin văn hóa xã, tuổi trạc bốn mươi, chỉ mặc com-lê vào ngày Tết ta và ngày lễ hội mà trông ra vẻ trí thức lắm. Ông có vài lời phi lộ rồi từ từ mở vung nồi. Mùi cơm gạo tám thổi xuê, chín nục, tỏa thơm lừng, ngây ngất, gợi cảm giác đói cồn cào gan ruột...
Thắm hạnh phúc quá. Ngờ đâu đời Thắm có ngày này. Thắm đưa mắt nhìn Hưng đắm đuối: "Anh Hưng ơi, em yêu anh biết ngần nào. Em đã có anh. Có cha, có mẹ. Có một mái nhà yên ấm. Em đã thật sự được làm người".