Các chính sách dân tộc tạo đà cho phát triển
Giai đoạn 2011-2015, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền đã ban hành 128 văn bản liên quan đến chính sách dân tộc. Hệ thống chính sách dân tộc từng bước được xây dựng, hoàn thiện theo từng giai đoạn. Cơ chế chính sách cho vùng DTTS và MN đang có sự thay đổi căn bản. Từ chỗ chính sách cho vùng DTTS và MN chủ yếu là những chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân chuyển sang chính sách vừa đầu tư phát triển vừa hỗ trợ tạo sinh kế cho đồng bào. Địa bàn trong hệ thống chính sách cũng có thay đổi cơ bản, chuyển sang tập trung, ưu tiên đầu tư và hỗ trợ cho những vùng khó khăn nhất.
Theo kết quả điều tra 53 DTTS năm 2015, đến nay, tỷ lệ số thôn được sử dụng điện đạt 97% (còn 1.422 thôn chưa có điện), trong đó có 93% số thôn được sử dụng điện lưới quốc gia; có 45,8% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Các dịch bệnh như sốt rét, bướu cổ cơ bản được khống chế, giảm đáng kể tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Nhờ có chính sách đúng đắn phát triển giáo dục - đào tạo ở vùng DTTS và MN, đến nay 100% số xã có trường tiểu học, trung học cơ sở; tỷ lệ trường, lớp học được kiên cố hóa 84,6%; 100% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, nhiều nơi đã đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Toàn quốc hiện có bốn trường dự bị đại học, với quy mô 3.000 học sinh/năm; 314 trường phổ thông dân tộc nội trú, với quy mô hơn 91 nghìn học sinh; tỷ lệ học sinh DTTS học trong các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú chiếm 8% số học sinh DTTS cả nước. Hằng năm có hàng nghìn em được cử tuyển đào tạo đại học. Trong các năm qua, Ủy ban Dân tộc đã tổ chức tuyên dương học sinh, sinh viên xuất sắc tiêu biểu (năm sau số em được tuyên dương nhiều hơn năm trước). Tỷ lệ cán bộ người DTTS tham gia các cơ quan trong hệ thống chính trị ngày càng tăng...
Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS đã được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 35% (năm 2011) xuống còn 16,8% (cuối năm 2015). Kết thúc giai đoạn 2011-2015 đã có 80 xã, 370 thôn, bản ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn. Những kết quả cụ thể nêu trên cho thấy hệ thống chính sách dân tộc giai đoạn 2011-2015 phủ kín trên mọi lĩnh vực; chính sách đã có tác động mạnh mẽ, tạo sức lan tỏa sâu, rộng trong vùng DTTS và MN, động viên bà con dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng với hỗ trợ của Nhà nước, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, phấn đấu phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, xây dựng cuộc sống ngày càng no đủ, yên vui.
Cần sửa đổi, bổ sung chính sách phù hợp thực tế
Qua hoạt động thực tiễn, chính sách dân tộc giai đoạn vừa qua cũng đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập, yếu kém. Đó là, chính sách ban hành nhiều nhưng khả năng cân đối nguồn lực thấp, thời gian thực hiện ngắn, do vậy nhiều chính sách chưa đạt được mục tiêu đề ra (tổng kết chung, nguồn lực mới cân đối được 51,7%, một số chính sách dưới 10%).
Nhận thức của một số cấp chính quyền, cơ quan thực hiện chính sách còn hạn chế, có trường hợp còn sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích. Hệ thống công trình đầu tư từ Chương trình 135 do không được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên cho nên xuống cấp nhanh, một số công trình không còn phát huy tác dụng. Hỗ trợ phát triển sản xuất, giảm nghèo thiếu bền vững, tỷ lệ tái nghèo còn cao. Hệ thống chính sách dân tộc, xét trên nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa giải quyết thấu đáo những vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra.
So với giai đoạn trước, tuy kết cấu hạ tầng ở vùng DTTS và MN đã thay đổi, từng bước hoàn thiện và đồng bộ hóa nhưng chủ yếu mới đáp ứng nhu cầu tối thiểu của sản xuất và đời sống của nhân dân, vẫn cần tiếp tục đầu tư để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Hiện, còn 65 xã chưa có đường ô-tô đến trung tâm xã bốn mùa; 13.539 thôn tuy đã có đường giao thông đến trung tâm xã, nhưng chỉ đi được mùa khô, xe cơ giới không đến được; 22,9% số phòng học được xây dựng tạm hoặc bán kiên cố; 53,3% số xã chưa có nhà văn hóa; 1.422 thôn chưa có điện, có khoảng 55.000 hộ gia đình chưa được sử dụng điện... Hiện vẫn còn 221.754 hộ DTTS nghèo thiếu đất sản xuất, 80.960 hộ thiếu đất ở...
Tình hình sản xuất và đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, thách thức do vùng DTTS và MN là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai. Rét đậm, rét hại, mưa đá, gió lốc, băng tuyết xảy ra hầu hết tại các tỉnh thuộc vùng núi phía bắc và Tây Nguyên; hạn hán, thiếu nước sản xuất và sinh hoạt trên diện rộng tại các tỉnh miền trung, Tây Nguyên; hạn hán, xâm ngập mặn, lũ lụt nghiêm trọng xảy ra ở các tỉnh miền trung vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế này đòi hỏi hệ thống chính sách cần phải sửa đổi, bổ sung nhiều hơn nữa để phù hợp với tình hình thực tiễn. Tỷ lệ hộ nghèo cao, thiên tai, dịch bệnh; thiếu việc làm thu nhập thấp, bấp bênh; tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao, chất lượng nguồn nhân lực thấp… vẫn đang là thách thức lớn đối với vùng DTTS và MN.
Ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm
Trong giai đoạn 2016 - 2020, Ủy ban Dân tộc xác định cần tiếp tục đổi mới công tác dân tộc, hệ thống chính sách dân tộc một cách toàn diện. Ban hành chính sách tiếp tục hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội vùng DTTS và MN, ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; phấn đấu hằng năm, tỷ lệ hộ nghèo DTTS giảm từ 3 đến 4%.
Trong phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và MN giai đoạn 2016-2020 xác định một số chỉ tiêu để tập trung lồng ghép ưu tiên bố trí nguồn lực để phấn đấu đạt được các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với đồng bào DTTS làm cơ sở hướng tới mục tiêu phát triển bền vững sau năm 2015, góp phần phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, các vùng. Tập trung quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện quyết liệt, phấn đấu thực hiện thắng lợi nội dung Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về công tác dân tộc: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào DTTS, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc, nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”.
Đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc như: Nghị định 05/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc, Quyết định 449/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020, Nghị quyết về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2030; Chỉ thị 28/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc; Quyết định phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS trong thời kỳ mới; Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 và các chính sách dân tộc ban hành giai đoạn 2016 - 2020...
Theo đó, những nhiệm vụ cụ thể trong phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và MN là: Giảm nghèo vùng DTTS và MN gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường một cách bền vững; Đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng DTTS và MN, bảo đảm hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tham gia vào các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập từ trung ương đến cơ sở, đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Tiếp tục đẩy mạnh các chương trình quốc gia về bảo tồn và phát huy văn hóa các DTTS đồng bộ hài hòa trong chiến lược xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...