Hiroshima: Hậu quả bom nguyên tử vẫn còn dai dẳng 

Hiroshima: Hậu quả bom nguyên tử vẫn còn dai dẳng 

Đối với những người sống ở Hiroshima ngày 6-8-1945 thì đó là nỗi sợ hãi mà họ không thể nào quên.

Đối với họ, thảm hoạ cách đây tròn 60 năm không bao giờ là chuyện quá khứ. Nó luôn luôn là mối lo sợ hàng ngày.

Bà Keiko Ogura (ảnh bên) lúc đó là một cô bé sống ở ngoại ô thành phố Hiroshima khi Mỹ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Nhật Bản.

Bà nói: “Người tôi không có vết sẹo nào, nhưng tôi thực sự luôn có những cơn ác mộng về nó”.

Giống như hàng ngàn người sống sót khác, được biết đến ở Nhật Bản với cái tên hibakusha, bà Keiko Ogura được kiểm tra sức khoẻ đều đặn trong những tháng đầu tiên sau khi vụ nổ bom xảy ra.

Sau chiến tranh, Mỹ đã tiến hành điều trị cho những người bị ảnh hưởng của vụ nổ bom hạt nhân. Điều này cũng cho phép các nhà khoa học nghiên cứu tác động của tia phóng xạ lên con người.

Bà nói: “ Có một vài lần ô tô đến đón và đưa tôi đến trung tâm nghiên cứu nơi họ khám cho tôi”.

“Tôi luôn sợ hãi. Có cái gì đó trên người tôi không? Đó là nỗi sợ hãi vô hình. Tôi bị bênh thiếu máu, nên tôi ngay lập tức tự hỏi, có cần làm điều gì với tác hại của quả bom không? Và sau đó tôi nghĩ liệu tôi có khả năng sinh con bình thường không?”.

Sự sợ hãi của bà Keiko Ogara không có gì lạ. Người ta đã nghe những câu chuyện tương tự như vậy của người khác, những người đã chịu hậu quả của quả bom hạt nhân khi còn là những đứa trẻ.

Những người đã phải trải qua sự kiện khủng khiếp tháng 8-1945, và con cháu của họ, được các bác sĩ và các nhà khoa học theo dõi chặt chẽ hơn những người khác.

Giáo sư Saeko Fujiwara thuộc Quỹ nghiên cứu tác động phóng xạ cho biết: “ Đây là nơi duy nhất nghiên cứu những tác động trên thực tế của phóng xạ lên con người”.

Bà giáo sư nói: “Chúng tôi nghiên cứu về mối quan hệ giữa mức độ phơi nhiễm và mức độ phóng xạ. Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu dịch tễ học lớn duy nhất có thể làm việc này. Đó là lý do tại sao công trình nghiên cứu của chúng tôi là duy nhất.”

Nghiên cứu này đã giúp các nhà khoa học vạch ra những phương hướng để tránh phơi nhiễm các nguồn phóng xạ được sử dụng trong ngành công nghiệp hạt nhân trên khắp thế giới.

Ông Charles Waldren, nhà khoa học hàng đầu của Quỹ nghiên cứu tác động phóng xạ, tin rằng gần nửa triệu công nhân ở Mỹ và khoảng ngần đó công nhân ở châu Âu làm việc trong ngành công nghiệp hạt nhân sẽ được hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu này.

Ông nói: “Nghiên cứu của chúng tôi cho phép người dân tiếp tục làm việc ở mức độ phơi nhiễm được coi là an toàn đối với sức khoẻ. Tôi nghĩ các con số ước tính về rủi ro từ phóng xạ sử dụng ở các nước đều sử dụng các số liệu của chúng tôi”.

Nhưng việc theo dõi người dân ở Hiroshima, những người chịu ảnh hưởng của vụ nổ hạt nhân và con cháu của họ, việc nghiên cứu nói trên không phải là sự tò mò mang tính khoa học.

Có một sự quan tâm lo lắng thật sự đến những người sống sót khi họ ngày càng già đi. Tuổi thọ trung bình của hibakushas là 72.

Khi họ bị phơi nhiễm phóng xạ, gien di truyền của họ bị ảnh hưởng, và những người ở càng gần tâm vụ nổ thì tác động càng lớn.

Trong nhiều trường hợp gien của họ đã tự lành. Nhưng có thể việc tự chữa đó không hoàn hảo, dẫn đến nguy cơ khi về già, họ mắc bệnh ung thư.

Giáo sư Kenji Kamiya, giám đốc viện nghiên cứu phóng xạ, sinh học và y học của trường đại học Hiroshima cho biết phóng xạ cũng tác động đến bản đồ gien.

Ông nói: “Trong cơ thể một số người, hệ thống gien không được điều chỉnh đúng cách. 60 năm sau mới nảy sinh vấn đề. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư cao nhất là ở những người trẻ nhất chịu ảnh hưởng của vụ nổ. Những người này hiện đến độ tuổi mà bệnh ung thư có thể phát triển. Do đó, trong những năm tới số người mắc bệnh ung thư trong số các nạn nhân bom hạt nhân sẽ tăng nhanh.

60 năm sau thảm hoạ bom nguyên tử, các nhà khoa học vẫn phải nỗ lực để tìm ra cách giải quyết hậu quả của nó. Và đối với những người may mắn sống sót như bà Keiko Ogura, thì tác hại khủng khiếp của nó và nỗi lo sợ vẫn còn dai dẳng.

VIỆT LONG
BBC

Có thể bạn quan tâm