Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam - Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm

Ngày 16/1, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao phối hợp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “50 năm Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam: Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm”. Báo Nhân Dân giới thiệu toàn văn bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tại hội thảo này.

0:00 / 0:00
0:00
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phát biểu đề dẫn. (Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN)
GS.TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, phát biểu đề dẫn. (Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN)

Thưa các đồng chí,

Cách nay 50 năm, ngày 27/1/1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức được ký kết tại Paris, nước Pháp, mở ra bước ngoặt trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, tạo thuận lợi cho cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước.

1. Hiệp định Paris - thắng lợi đỉnh cao của nền ngoại giao Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước

Từ năm 1965, cùng với việc đưa quân trực tiếp xâm lược miền nam và tiến hành chiến tranh phá hoại đối với miền bắc, đế quốc Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc vận động ngoại giao, với danh nghĩa “để giải quyết vấn đề Việt Nam” nhưng thực chất là “đòi Việt Nam thương lượng không điều kiện”[1]. Trước tình hình đó, Đảng ta đã khẳng định quyết tâm của nhân dân Việt Nam chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, phản bác lại luận điệu hòa bình giả hiệu của nhà cầm quyền Mỹ đòi Việt Nam thương lượng vô điều kiện; đồng thời, đã trù tính đến cục diện “vừa đánh, vừa đàm”.

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 (tháng 1/1967) chỉ rõ: “đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường”[2], qua đó nâng đấu tranh ngoại giao lên thành mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận chính trị và mặt trận quân sự, có giá trị như một bản Cương lĩnh đấu tranh ngoại giao của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tháng 5/1968, Hội nghị Paris chính thức diễn ra, “đánh dấu cuộc đọ sức trên mặt trận ngoại giao”, tạo cục diện “vừa đánh, vừa đàm”. Cuộc đàm phán ở Hội nghị Paris đã diễn ra đầy cam go, phức tạp, “kéo dài gần 5 năm, với 202 phiên công khai, 36 phiên gặp riêng”[3]. Cuối cùng, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Paris) ngày 22/1/1973, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Cố vấn Henry Kissinger ký tắt. Ngày 27/1/1973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký chính thức.

Đây là văn kiện pháp lý quốc tế khẳng định thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, với những điều khoản quan trọng, như: Hoa Kỳ cùng các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh rút khỏi Việt Nam. Nhân dân miền nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua Tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ; việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình...

Trải qua một quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên trì, đầy hy sinh gian khổ, từ Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946), Tạm ước (14/9/1946), Hiệp định Geneva (21/7/1954), cho đến Hiệp định Paris, Việt Nam đã khẳng định với thế giới là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Hiệp định Paris là đỉnh cao thắng lợi của ngoại giao Việt Nam trong 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, là minh chứng hùng hồn cho việc vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho chủ trương “thêm bạn”, “bớt thù”, dự báo và nắm đúng thời cơ để đi đến thắng lợi quyết định của Đảng ta“... Thắng lợi rực rỡ này là kết quả của hơn 18 năm kiên trì chiến đấu, vượt qua muôn nghìn hy sinh, gian khổ, của bốn mươi triệu đồng bào và chiến sĩ cả nước ta. Đó là thắng lợi của tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, của sức mạnh đoàn kết toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường bốn nghìn năm của dân tộc Việt Nam”[4].

2. Tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Paris đối với tiến trình cách mạng Việt Nam và thế giới

Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp của các lĩnh vực quân sự, chính trị và ngoại giao, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân, tạo cục diện mới để đi đến thắng lợi cuối cùng. Từ điểm tựa chiến lược của Hiệp định Paris, quân và dân ta đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[5].

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Hiệp định về việc lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào (còn gọi là Hiệp định Viêng Chăn) cũng được ký kết (2/1973), mở ra trang sử mới và là tiền đề trực tiếp dẫn tới thắng lợi trọn vẹn của cách mạng Lào vào năm 1975. Hiệp định Paris cũng tạo điều kiện thuận lợi để cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Campuchia tiến lên giành thắng lợi vào tháng 4/1975. Với việc quân đội Mỹ rút khỏi khu vực, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) giải thể đã mở ra một cục diện mới và xu thế hòa bình, trung lập ở Đông Nam Á. Đây cũng là đóng góp to lớn của phong trào cách mạng Việt Nam cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ và giải phóng dân tộc của nhân dân thế giới.

Hiệp định Paris đã tạo ra điều kiện và môi trường thuận lợi để nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, chính nghĩa và thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Đây là nền tảng quan trọng để bước vào thời kỳ Đổi mới, chúng ta khai thông, nối lại và bình thường hóa các mối quan hệ đối ngoại, phá bỏ sự bao vây, cô lập, cấm vận, mở ra giai đoạn hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.

3. Giá trị to lớn và những bài học kinh nghiệm quý báu của Hiệp định Paris trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Nửa thế kỷ đã trôi qua, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam vẫn vẹn nguyên giá trị với những bài học kinh nghiệm sâu sắc, quý giá. Đó là bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc, phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, chính trị, lấy thắng lợi quân sự và chính trị là cơ sở để tiến công ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, cô lập kẻ thù. Phát huy bài học đó trong giai đoạn đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc Đổi mới đất nước, chúng ta cần gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động ngoại giao với phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá, ngoại giao quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao nhân dân; tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi chưa nguy, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Đó là bài học về quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Dĩ bất biến” là kiên quyết không khoan nhượng đối với những vấn đề có tính nguyên tắc về: giữ vững độc lập tự chủ; tôn trọng những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, quyền tự quyết của nhân dân miền nam, Mỹ cùng quân đội nước ngoài phải rút khỏi miền nam Việt Nam... “Ứng vạn biến” là tích cực, linh hoạt, chủ động, khôn khéo trong lựa chọn hình thức, phương pháp đấu tranh ngoại giao, trong nhân nhượng về những vấn đề thứ yếu, biết giành thắng lợi từng bước trong đàm phán tiến đến giành thắng lợi hoàn toàn. Điều đó làm nên đặc trưng của nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc - trường phái ngoại giao Cây tre Việt Nam[6].

Đó còn là bài học sâu sắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô (trước đây), Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước không liên kết, nhân dân thế giới và nhân dân Mỹ, hình thành “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”[7]. Kế thừa và phát huy bài học quan trọng đó, trong sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã đề ra chủ trương coi nội lực là yếu tố quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xử lý đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế, giữa lợi ích quốc gia dân tộc và trách nhiệm quốc tế; phân tích, dự báo, đánh giá đúng tình hình, tỉnh táo, ứng phó chủ động và kịp thời trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới.

Đặc biệt, đó là bài học về giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong toàn bộ quá trình đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Càng trong quá trình hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, chúng ta càng cần tăng cường và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao để thực hiện thành công, nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại... Việt Nam là bạn, là đối tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.[8]

Hôm nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 191 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, với tổng thể các mối quan hệ đặc biệt, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện rộng lớn; là thành viên tích cực và có trách nhiệm của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế, ngoại giao Việt Nam đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển.

Ôn lại tầm vóc, ý nghĩa lịch sử to lớn của Hiệp định Paris 50 năm về trước, chúng ta càng thêm tự hào về bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, kế thừa những truyền thống tốt đẹp và vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý báu trong xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, bản sắc và hiện đại, góp phần xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

Xin trân trọng cảm ơn!

------------------------------

[1] Hiệp định Paris - 40 năm nhìn lại, Nxb QĐND, Hà Nội, 2013, tr.42.

[2] Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập 2 (1965-1970), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.38.

[3] Vũ Dương Huân, Kết quả nghiên cứu, tổng kết đàm phán Paris về Việt Nam, trong sách Cuộc đàm phán lịch sử. Kỷ niệm 35 năm Hiệp định Paris 1973-2008, Nxb CTQG, Hà Nội, 2009, tr.33.

[4] “Lời kêu gọi” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 28/1/1973. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.11.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37 (1976), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.471.

[6] Phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ngày 14/12/2021.

[7] Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr.267.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2021, tr.161-162.