Hành trình đưa nguồn vốn chính sách giúp dân thoát nghèo

NDO - Chính thức ra đời và đi vào hoạt động ngày 4/10/2002, hành trình 20 năm làm “cánh tay nối dài” của Chính phủ mang nguồn vốn ưu đãi đến với người nghèo và các đối tượng chính sách khác của Ngân hàng Chính sách xã hội thấm đầy gian khó, nhưng cũng đong đầy niềm vui. Trong suốt hành trình ấy, đã có hơn 42 triệu lượt hộ được vay vốn chính sách để vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng.
0:00 / 0:00
0:00
(Ảnh minh họa).
(Ảnh minh họa).

Thời điểm đầu năm 2002, riêng hộ nghèo chiếm tới gần 30% tổng hộ dân trên toàn quốc. Địa bàn phục vụ phần lớn tập trung ở những nơi đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa phát triển. Không chỉ ở những xã miền núi chưa có đường ô-tô đến được trụ sở Ủy ban nhân dân xã, chiếm tỷ lệ từ 30%-80%, mà văn hóa còn khác biệt của 54 dân tộc cùng những tập quán sản xuất tự cung, tự cấp, ăn sâu bám rễ nhiều đời ở các địa phương, khiến nhiệm vụ “đem tiền Chính phủ cho bản làng vay đủ” không dễ dàng.

Chính vì vậy, Ngân hàng Chính sách xã hội đã phối hợp chặt chẽ với bốn tổ chức chính trị-xã hội: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chính binh và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vận hành phương thức quản lý vốn tín dụng chính sách xã hội đặc thù với sự ủy thác một số nội dung công việc.

Ngân hàng Chính sách xã hội đã nhiều lần cùng với các tổ chức chính trị-xã hội nhận ủy thác củng cố hoạt động, đặc biệt là nâng cao chất lượng Tổ tiết kiệm vay vốn, để làm tốt nhất công tác tuyên truyền, khuyến khích, vận động người dân mạnh dạn vay vốn, thay đổi tư duy phát triển kinh tế, lồng ghép nguồn vốn chính sách cùng các chương trình phát triển kinh tế của địa phương. Quan trọng hơn là giám sát đồng vốn, sử dụng vốn hiệu quả, đúng mục đích và thu hồi vốn để kịp thời luân chuyển dòng vốn ngày càng sâu rộng đến các đối tượng khác được thụ hưởng bình đẳng.

Tại nhiều địa phương, cán bộ tín dụng Ngân hàng Chính sách xã hội đã trở thành một trong những lực lượng chủ chốt tiên phong, đặt chân đến những vùng đất khó khăn nhất, cùng với các chiến sĩ bộ đội biên phòng và chính quyền địa phương hỗ trợ bà con làm kinh tế giảm nghèo.

Điểm giao dịch xã với ngày giao dịch cố định hằng tháng là một sáng kiến mang tính đột phá riêng có của Ngân hàng Chính sách xã hội, một bước tiến trong cải cách thủ tục hành chính, để đưa tín dụng chính sách đến người dân kịp thời theo phương châm “Giao dịch tại nhà, giải ngân, thu nợ tại xã”.

Nhưng để có những phiên giao dịch “đến hẹn lại lên” cũng chứa đựng không ít hy sinh lớn lao của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong hệ thống khi nhiều cán bộ dù ở huyện cách nhà vài chục cây số, nhưng cả tháng không có thứ 7, chủ nhật về với gia đình vì trùng vào phiên giao dịch tại xã. Những cán bộ tăng cường, luân chuyển công tác, câu chuyện vài tháng về nhà cũng không hiếm gặp...

Ngân hàng Chính sách xã hội không chỉ phát huy vai trò là “cánh tay nối dài” của Chính phủ, thực thi các chính sách tín dụng xã hội, mà hơn thế dần phát huy vai trò “cầu nối” giữa những người nghèo, đối tượng yếu thế với các cơ quan Nhà nước và Chính phủ, đề xuất và tham mưu ban hành nhiều chương trình tín dụng mới, nâng mức vay đáp ứng yêu cầu bức thiết của người dân. Hệ thống các chính sách tín dụng dần hoàn thiện mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ và có tính kế thừa, phát triển.

Đến nay, từ hai chương trình tín dụng ban đầu,Ngân hàng Chính sách xã hội đã và đang triển khai 22 chương trình tín dụng rộng khắp trên 100% xã, phường, thị trấn trên toàn quốc để giúp người nghèo và các đối tượng chính sách khác vững bước phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Đơn cử như xã Trà Tân, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam - nơi có căn cứ địa Cách mạng Nước Oa của cơ quan Khu ủy khu V, Bộ Tư lệnh Quân khu V và các cơ quan ban ngành khu V trong kháng chiến chống Mỹ (giai đoạn 1960-1973) và dãy Trường Sơn hùng vĩ - lại là thách thức đối với người dân trong phát triển kinh tế thời bình khi giao thông đi lại khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây vẫn có thói quen tự cung, tự cấp, neo bám lâu đời.

Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn thôn 1, xã Trà Tân Đinh Văn Hoàng cho biết: Vào những năm đầu của thế kỷ XXI, thôn 1 có 100% là hộ nghèo, trong đó 85% gia đình thiếu đói giáp hạt. Bản thân anh cũng từng là hộ nghèo trước năm 2008, cho đến khi được chính quyền và Ngân hàng Chính sách xã hội tuyên truyền vận động, sau đó bản thân nhận thức rõ muốn thoát nghèo và làm giàu chính đáng là phải mạnh dạn vay vốn Nhà nước chí thú làm ăn, trồng keo, nuôi bò.

Tuy nhiên, con đường thoát nghèo của anh cũng như người dân trong thôn không dễ dàng khi phải trải qua cả chục năm chăn nuôi với nhiều vòng quay từ vốn vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, rồi đến hộ mới thoát nghèo. Đến nay, thôn 1 đã có 75% hộ thoát nghèo và không phát sinh hộ tài nghèo. Nhiều hộ đã có “của ăn của để”, trở thành tấm gương sáng cho người khác noi theo.

Như Trưởng thôn Hồ Thanh Tùng, trải qua hai vòng vốn vay hộ nghèo 20 triệu đồng rồi 50 triệu đồng đã phát triển trồng 5ha keo, nuôi trâu, đến năm 2019, vươn lên thoát nghèo. Năm 2020, anh tiếp tục vay 80 triệu đồng để đầu tư mở rộng đàn trâu tới 7 con. Cùng với vài lần thu hoạch keo trong những năm qua đã làm cho anh tự chủ về tài chính để nuôi ba người con ăn học.

Trong 20 năm qua, đã có hơn 42 triệu lượt hộ được vay vốn với hơn 814 nghìn tỷ đồng, từng bước chung tay cùng cả nước giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% xuống 4,25% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015); tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% (năm 2016) xuống còn 2,75% (năm 2020).

Thống kê số liệu của Ngân hàng Chính sách xã hội, trong 20 năm qua, đã có hơn 42 triệu lượt hộ được vay vốn với hơn 814 nghìn tỷ đồng, từng bước chung tay cùng cả nước giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011-2015 từ 14,2% xuống 4,25% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015); tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 9,88% (năm 2016) xuống còn 2,75% (năm 2020).

Tất cả những nỗ lực ấy đã góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm sáng trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo được thế giới ghi nhận. Tuy nhiên, chặng đường giảm nghèo còn không ít khó khăn, thách thức bởi phần lớn hộ nghèo thuộc lõi nghèo, đặc biệt vùng Trung du, miền núi phía bắc là nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất nước (13,4%). Mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị. Hai vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là Trung du miền núi phía bắc và Tây Nguyên cũng là hai vùng có hệ số biểu thị độ bất bình đẳng trong thu nhập trên nhiều vùng miền, tầng lớp của một đất nước (hệ số GINI) cao nhất, tương ứng là 0,428 và 0,418, Đông Nam Bộ là vùng có hệ số GINI thấp nhất (0,322).

Để đẩy nhanh hành trình giảm nghèo bền vững, bên cạnh trọng tâm giảm nghèo, Ngân hàng Chính sách xã hội cần tiếp tục tập trung vốn cho công tác giải quyết việc làm và sinh kế, cho vay học sinh, sinh viên, cùng các chương trình tín dụng nâng cao chất lượng sống.

Đây sẽ là những động lực góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, mà hơn cả là góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền vững, hướng tới quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.