Giúp người Ðan Lai ổn định cuộc sống

Theo thống kê dân số, đến cuối năm 2006, tộc người Ðan Lai có 663 hộ với 2.983 nhân khẩu. Theo điều tra sử học, thì tộc người Ðan Lai có gốc gác từ huyện Thanh Chương (Nghệ An).

Sử tích của người Ðan Lai kể lại do ngày xưa tộc người Ðan Lai vi phạm tội gì đó của chế độ phong kiến hà khắc, nên điền chủ bắt tổ tiên của họ phải vào rừng tìm cho đủ "trăm cây nứa vàng và cái thuyền liền chèo" về nộp cho điền  chủ; nếu không sẽ bị tru di tam tộc!

Tổ tiên của họ đã cử hàng trăm thanh niên lực lưỡng đi khắp sơn cùng, thủy tận, lục khắp các ngọn núi, lòng khe, vẫn không sao tìm được dù chỉ là một "cây nứa vàng" và không thể làm được "cái thuyền liền chèo". Và, do lo sợ phải chịu án tru di tam tộc, nên họ rủ nhau bỏ làng đi trốn.

Cứ thế, đêm đi ngày trốn, họ theo các ngọn khe đi mãi đến tận biên giới Việt - Lào, họ sống hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, lấy vỏ cây rừng làm quần áo che thân, nguồn sống chủ yếu là củ, quả, măng rừng; thực phẩm là cá suối, thịt thú rừng. Nhà của họ là những túp lều tạm làm bằng lá cây rừng, khi lá cây lợp trên mái nhà vàng khô, họ lại di chuyển sang chỗ khác. Họ giữ lửa quan trọng hơn giữ mạng sống của mình. Không có giường, tối đến họ quây quanh bếp lửa, mỗi người tựa trán vào chiếc gậy có hình chữ Y để ngủ.

Sau khi đất nước thống nhất, Ðảng, Nhà nước luôn quan tâm đến người Ðan Lai. Hằng năm có hàng trăm tấn gạo, muối, dầu đèn, thuốc men... được vận chuyển vào để cứu trợ. Nhưng, do họ sống nơi đầu khe, ngọn núi, đường giao thông không có, việc vận chuyển hàng hóa chủ yếu luồn lách theo các ngọn khe nên năm nào huyện Con Cuông cũng phải vận động cán bộ, công nhân viên và nhân dân ủng hộ người Ðan Lai ăn Tết.

Năm 1993, huyện thành lập đội công tác đặc biệt, cử những cán bộ của nhiều ngành có hiểu biết về tộc người này, để vào cùng ăn, cùng ở, cùng làm, nhằm giúp họ làm ăn cải thiện cuộc sống.

Huyện đầu tư kinh phí, huy động lực lượng vào khai hoang vỡ đất; Ðội công tác hướng dẫn họ từ khâu lật đường cày, lên luống rau, cấy cây lúa, đặt dây khoai; cấp cho mỗi hộ một con trâu hoặc bò làm sức kéo và chăn nuôi sinh sản.

Tưởng sau một năm dưới sự hướng dẫn của  cán bộ, họ bắt nhịp cuộc sống, nhưng khi cán bộ huyện rút về, họ lại bỏ ruộng hoang, vườn trống. Khi tìm hiểu, mới hay họ không làm do đất đai tầng phù sa mỏng, chế độ gió, nắng, cả ánh sáng và kinh nghiệm làm ăn kém, không có sự theo dõi, giúp đỡ của cộng đồng... nên năng suất không cao.

Mặt khác, do tập tục sống tự nhiên "rau rừng, cá suối", họ quen khai thác gỗ, bắt động vật rừng bán, đổi lương thực hàng hóa. Sáng vác dao, vác rìu, mang nỏ vào rừng, chiều về thấy "sản phẩm". Còn trồng cây lúa, cây ngô lâu ăn quá. Khi Chính phủ có lệnh đóng cửa rừng, Vườn quốc gia Pù Mát được thành lập, lực lượng kiểm lâm và bộ đội biên phòng kiểm tra nghiêm ngặt, đẩy đuổi bọn lâm tặc ra khỏi địa bàn, việc buôn bán lâm sản không còn, cuộc sống của người Ðan Lai lâm vào túng bấn.

Ðể giúp người Ðan Lai ổn định cuộc sống, đầu năm 2001, huyện xây dựng đề án "tái định cư người Ðan Lai", nhằm đưa họ ra khỏi vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát vừa để bảo vệ rừng đầu nguồn và quan trọng hơn là để bảo vệ giống nòi của tộc người này. Ðề án được Chính phủ phê duyệt. Tháng 9-2002, huyện di dời thành công 36 hộ từ bản Co Phạt về tại hai bản Tân Sơn và Cửa Rào (xã Môn Sơn).

Ðầu năm 2007, di dời tiếp 42 hộ về tại bản Thạch Sơn (xã Thạch Ngàn). Mỗi hộ di dời được cấp một ngôi nhà sàn kiên cố trị giá từ 130 đến 175 triệu đồng (theo phân loại hộ từ 3 đến 5 người được cấp nhà hai gian trị giá 130 triệu đồng; hộ từ sáu người trở lên được cấp nhà ba gian trị giá 175 triệu đồng). Xây trường lớp cho con em đi học, họ được cấp 1.000-2.000 m2 ruộng để cấy lúa, cấp 1-2 ha rừng để khoanh nuôi, bảo vệ.

Ngoài ra, vận động họ khai hoang, phục hóa, tận dụng các hốc, chọ tại các lòng khe để cấy lúa, ngăn suối làm ao nuôi cá. Huyện thành lập tổ công tác do kỹ sư - phó phòng nông nghiệp huyện làm tổ trưởng, trực tiếp ăn ở và cầm tay chỉ việc cụ thể. Bắt đầu dạy họ cày, cấy, lên luống rau, trồng cây bầu, cây bí, giàn mướp; hướng dẫn họ mùa nào trồng cây gì. Toàn bộ phân bón, giống, bảo vệ thực vật... huyện cung cấp đủ.

Bà con các dân tộc Thái, Kinh ở chung quanh thường xuyên giúp đỡ họ cả về vật chất và kinh nghiệm làm ăn. Khi ra nơi ở mới, họ được hỗ trợ tiền ăn, lương thực một năm. Các tổ chức đoàn thể và cán bộ huyện, các xã thường xuyên vào thăm và động viên. Nhiều cán bộ chỉ đạo quên cả việc nhà vào cùng ăn, cùng ở, cùng làm, sáng ra đồng với bà con, tận tình hướng dẫn bà con sản xuất, chăn nuôi.

Ðến nay cơ bản bà con đã bắt nhịp cuộc sống mới. Nhờ sự chỉ đạo sát thực tế, giúp bà con, vụ ngô xuân 2007, bà con có 65 ha bội thu, vụ hè thu, vụ đông đều thắng lợi, năng suất ngô đạt hơn 70 tạ/ha, năng suất lúa hơn 50 tạ/ha, các loại rau màu, mùa nào thức ấy! Sau một năm ra nơi ở mới, bà con đã có vườn rau, ao cá, nhiều hộ đã bắt nhịp sớm, tích cực làm ăn không những có của ăn của để mà còn mua được xe máy, mua ti-vi và các phương tiện nghe, nhìn, sinh hoạt như hộ ông La Quang Vinh, La Giang Sơn, bà La Thị Hương... Cái mà họ mơ ước cả ngàn đời nay là "bóng đèn lật ngược không cần dầu" vẫn sáng, thì ngày 16-1-2008, trạm hạ thế 35 kVA, đã chính thức đóng điện.

Vậy là, sau bao đời sống lay lắt nơi sơn cùng thủy tận, cả do đói nghèo bệnh tật, cả do lấy nhau cùng huyết thống, tộc người Ðan Lai không những không phát triển, mà ngày càng bị mai một.

Nhờ có Ðảng và sự quan tâm của Nhà nước, sự đùm bọc của cộng đồng, đề án tái định cư tộc người Ðan Lai bước đầu khẳng định đã thành công. Tết Mậu Tý vừa qua, người Ðan Lai vui đón Tết sáng ngời trong ánh điện. Không giấu nổi vẻ xúc động, già làng Lê Văn Tiên phấn khởi nói với chúng tôi: "Nhờ có Ðảng, Chính phủ chỉ lối đưa đường, nhờ có cán bộ huyện vào tận tâm chỉ dạy, nhờ sự cưu mang, sẻ chia đùm bọc của cộng đồng, giúp cho người Ðan Lai lột xác, đổi đời, có cuộc sống no ấm và được làm người thật rồi! Bà con ơn Ðảng, ơn Chính phủ lắm cán bộ ạ".

Có thể bạn quan tâm