Cơ giới hóa trong sản xuất góp phần quan trọng nâng cao năng suất, chất lượng lúa gạo Việt Nam.
Cơ giới hóa trong sản xuất góp phần quan trọng nâng cao năng suất, chất lượng lúa gạo Việt Nam.

Gạo Việt Nam trước cơ hội làm chủ thị trường

Theo số liệu từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2023 luôn ở mức cao nhất thế giới, nhiều thời điểm giữ mức hơn 650 USD/tấn. Dự kiến giá gạo toàn cầu sẽ không hạ nhiệt trước năm 2025 do hiện tượng thời tiết El Nino ảnh hưởng đến sản lượng lúa, trong khi một số quốc gia sản xuất và xuất khẩu lớn vẫn duy trì lệnh cấm xuất khẩu gạo. Đây là cơ hội lớn để ngành lúa gạo chuyển mình, vươn lên nắm giữ vai trò chi phối thị trường thế giới cả về sản lượng, chất lượng và giá trị.

Năm 2023, xuất khẩu gạo của Việt Nam ước đạt mức kỷ lục 8 triệu tấn, trị giá hơn 4,5 tỷ USD- mức cao nhất từ trước đến nay. Dự báo, Việt Nam còn nhiều tiềm năng tăng sản lượng và giá trị gạo xuất khẩu do nhu cầu gạo trên toàn cầu tăng cao.

Sự chuyển mình mạnh mẽ

Ông Cao Thăng Bình- Chuyên gia nông nghiệp cao cấp, Ngân hàng Thế giới cho biết: Từ năm 2015- 2022, dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT) thực hiện ở 8 tỉnh, thành phố đồng bằng sông Cửu Long, gồm: Long An, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng và Hậu Giang đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc nâng cao chất lượng gạo Việt Nam gắn với bảo vệ môi trường.

Cụ thể, có 156.000 hộ nông dân trồng lúa đã áp dụng thực hành canh tác lúa gạo bền vững (3 giảm 3 tăng và 1 phải 5 giảm), trên tổng số 184.000 ha đất trồng lúa.

Theo đó, các nông hộ sử dụng giống được chứng nhận (100%); Giảm lượng gieo sạ 30- 50%; Giảm phân vô cơ 22- 50%; Giảm nước 30- 40%; Giảm thuốc trừ sâu 40- 50%; Giảm thất thoát sau thu hoạch trên cánh đồng 20%. Lợi ích đạt được là tăng lợi nhuận 30%; Giảm phát thải 1,5 triệu tấn CO2tđ/năm (8 tấn/ha/năm).

Nếu kết quả này được triển khai nhân rộng trên 1 triệu ha đất trồng lúa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, sẽ mang lại tiềm năng giảm lượng phát thải khí nhà kính lên tới 8 triệu tấn CO2tđ hằng năm.

Nhiều năm qua, Việt Nam luôn là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Tổng diện tích trồng lúa hiện có khoảng 7,27 triệu ha, sản lượng bình quân 5,87 tấn/ha. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, sản lượng trung bình là 6,28 tấn/ha (trong khi sản lượng bình quân toàn thế giới là 4,25 tấn/ha).

Mỗi năm, Việt Nam xuất khẩu trung bình hơn 6 triệu tấn gạo, riêng 11 tháng đầu năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu 7,8 triệu tấn gạo với giá trị 4,41 tỷ USD. Gạo Việt Nam đã có mặt tại các thị trường từ châu Á, châu Âu, đến châu Mỹ và châu Phi.

Gạo Việt Nam trước cơ hội làm chủ thị trường ảnh 1

Sản phẩm gạo của Việt Nam được xuất khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới.

Theo Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (Văn phòng SPS Việt Nam), gạo Việt Nam đang được đón nhận tại thị trường châu Âu - thị trường khó tính bậc nhất thế giới - và trong vài năm trở lại đây không có bất kỳ lô hàng gạo nào của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này bị cảnh báo về tồn dư thuốc bảo vệ thực vật.

Điều đó khẳng định nỗ lực to lớn của Việt Nam trong việc không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, đáp ứng các quy định quốc tế đối với mặt hàng này.

Theo Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (Văn phòng SPS Việt Nam), gạo Việt Nam đang được đón nhận tại thị trường châu Âu- thị trường khó tính bậc nhất thế giới - và trong vài năm trở lại đây không có bất kỳ lô hàng gạo nào của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này bị cảnh báo về tồn dư thuốc bảo vệ thực vật. Điều đó khẳng định nỗ lực to lớn của Việt Nam trong việc không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, đáp ứng các quy định quốc tế đối với mặt hàng này.

Nông dân và doanh nghiệp cùng hưởng lợi

Theo ông Nguyễn Văn Tươi (xã Vĩnh Khánh, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang), hiện nay giá lúa tươi tại ruộng (hạt dài) vào khoảng 9.700 đồng/kg, cao hơn so với năm 2022 khoảng 1.000 đồng/kg. “Với mức giá này, nông dân chúng tôi có lợi nhuận khoảng 35 triệu đồng/ha, cao hơn so với cùng kỳ năm ngoái 10 triệu đồng/ha. Chưa năm nào thị trường lúa gạo sôi động như năm nay khiến bà con nông dân rất phấn khởi, thấy công sức mình bỏ ra được bù đắp và thấy hạt gạo Việt Nam có giá trị thực sự, rất muốn chuyên tâm đầu tư để gặt hái những vụ mùa bội thu hơn, chất lượng hơn” - ông Nguyễn Văn Tươi phấn khởi chia sẻ.

Mới đây, gạo Việt Nam đã đạt giải nhất tại Hội thi gạo ngon nhất thế giới lần thứ 15 do The Rice Trader tổ chức, trong khuôn khổ Hội nghị thương mại lúa gạo toàn cầu diễn ra tại Cebu, Philippines.

Cuộc thi gạo ngon nhất thế giới năm nay có 30 mẫu gạo của hơn 10 quốc gia dự thi, trong đó Việt Nam có 6 loại gạo tham dự của 3 doanh nghiệp, gồm: gạo Lộc Trời 28 và Nàng Hoa 9 của Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời; gạo TBR39-1 và nếp A Sào của Công ty cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed; gạo ST 24, ST 25 của doanh nghiệp Hồ Quang Trí. Kết quả này đã góp phần tôn vinh giá trị hạt gạo Việt Nam, đồng thời khẳng định chất lượng, tiềm năng và năng lực phát triển của gạo Việt Nam.

Mới đây, gạo Việt Nam đã đạt giải nhất tại Hội thi gạo ngon nhất thế giới lần thứ 15 do The Rice Trader tổ chức, trong khuôn khổ Hội nghị thương mại lúa gạo toàn cầu diễn ra tại Cebu, Philippines. Cuộc thi gạo ngon nhất thế giới năm nay có 30 mẫu gạo của hơn 10 quốc gia dự thi, trong đó Việt Nam có 6 loại gạo tham dự của 3 doanh nghiệp, gồm: gạo Lộc Trời 28 và Nàng Hoa 9 của Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời; gạo TBR39-1 và nếp A Sào của Công ty cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed; gạo ST 24, ST 25 của doanh nghiệp Hồ Quang Trí.

Đại diện Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời cho rằng: Đối với 2 giống lúa vừa đoạt giải là Lộc Trời 28 và Nàng Hoa 9, Tập đoàn khuyến khích bà con thực hiện quy trình canh tác khoa học cùng sử dụng bộ giải pháp chăm sóc và bảo vệ cây trồng hài hòa hữu cơ - sinh học - hóa học để bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên đất và nước, giảm lượng hóa chất rải xuống đồng ruộng thông qua việc cơ giới hóa theo đúng các tiêu chí về sản xuất lúa gạo bền vững, bảo đảm bao tiêu lúa, phát huy năng lực sản xuất và chế biến lúa gạo để luôn có thể cung cấp gạo ngon, gạo mới, chất lượng cao đến người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Tận dụng thời cơ để khẳng định vị thế

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc, hiện có 160 triệu ha trồng lúa trên toàn cầu, trong đó châu Á chiếm 90%. Hơn 3,5 tỷ người- chiếm gần một nửa dân số thế giới sử dụng gạo là lương thực chính. Năng lượng lúa gạo cung cấp chiếm khoảng 20% năng lượng của tổng khẩu phần ăn toàn cầu.

Tại châu Á, tiêu thụ lúa gạo chiếm tới 70% lượng calo trong khẩu phần ăn hàng ngày. Sản xuất lúa gạo hiện sử dụng 40% lượng nước tưới toàn cầu. Sự gia tăng dân số cùng với biến đổi khí hậu sẽ thúc đẩy nhu cầu tăng cao về tính đa dạng cũng như chất lượng gạo thời gian tới.

Gạo Việt Nam trước cơ hội làm chủ thị trường ảnh 2

Việt Nam đang đẩy mạnh chế biến sâu sản phẩm gạo xuất khẩu.

Dự báo về tình hình xuất khẩu gạo năm 2024, Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại Việt Nam nhận định, giá gạo xuất khẩu có thể vẫn ở mức cao và không thể giảm xuống dưới 640-650 USD/tấn. Nguyên nhân là do lượng lúa gạo giao dịch trên thế giới đang khan hiếm dần, còn Việt Nam đang nắm giữ cơ hội về xuất khẩu gạo.

Dự báo về tình hình xuất khẩu gạo năm 2024, Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại Việt Nam nhận định, giá gạo xuất khẩu có thể vẫn ở mức cao và không thể giảm xuống dưới 640- 650 USD/tấn. Nguyên nhân là do lượng lúa gạo giao dịch trên thế giới đang khan hiếm dần, còn Việt Nam đang nắm giữ cơ hội về xuất khẩu gạo.

Theo tính toán, nhu cầu gạo của các nước trên thế giới vẫn rất lớn, trong đó có các thị trường truyền thống như Philippines, Indonesia và Trung Quốc. Ấn Độ- quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới - cũng được dự báo sẽ tiếp tục duy trì lệnh cấm xuất khẩu gạo trong năm 2024.

Tại thời điểm hiện nay, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đạt mức 658 USD/tấn, cao hơn Thái Lan 35 USD/tấn và cao hơn Pakistan 60 USD/tấn. Tất cả những yếu tố đó cho thấy Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để vươn lên làm chủ thị trường thế giới cả về sản lượng và giá trị xuất khẩu gạo.

Tuy nhiên, trong giai đoạn mới, nhu cầu về gạo của các thị trường trên thế giới cũng có nhiều thay đổi, theo hướng giảm dần gạo phẩm cấp thấp, thay vào đó là các sản phẩm đặc sản, dinh dưỡng, các sản phẩm chế biến sâu từ gạo…

Hơn nữa, các thị trường chất lượng cao, giá cao cũng nâng mức yêu cầu khi đưa ra các quy định về sản xuất và tăng trưởng xanh, phát thải thấp, đòi hỏi ngành hàng lúa gạo Việt Nam phải sớm đáp ứng để nắm bắt cơ hội tăng trưởng cũng như làm chủ thị trường ở phân khúc sản phẩm tiềm năng này.

Một trong những đòn bẩy lớn để hiện thực hóa cơ hội này là Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.

Theo đó, sẽ xây dựng vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp ở đồng bằng sông Cửu Long mang tính đột phá trong tổ chức sản xuất ngành hàng lúa gạo, nâng cao giá trị gia tăng trong toàn chuỗi, bảo đảm phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, đóng góp vào tăng trưởng xanh và góp phần thực hiện các cam kết của Chính phủ tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP26), hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Để sớm hình thành 1 triệu ha lúa như kỳ vọng thì sáng kiến và giải pháp công nghệ hỗ trợ nâng cấp chuỗi giá trị lúa gạo là yêu cầu cần thiết. TS Nguyễn Văn Hùng - Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI) cho rằng: Cần có các giống lúa thích ứng biến đổi khí hậu, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng và thị hiếu của người tiêu dùng. Phát triển nhanh chóng diện tích canh tác lúa thích ứng với biến đổi khí hậu và phát thải carbon thấp. Theo đó, mở rộng ứng dụng các kỹ thuật canh tác như: tưới ngập - khô xen kẽ (AWD), gieo sạ chính xác, quản lý rơm rạ và phụ phẩm; hỗ trợ phát triển thị trường tín dụng carbon lúa gạo… Trong đó, riêng kinh tế tuần hoàn từ rơm rạ có thể giảm tới 30% phát thải carbon trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu và bản đồ hiện trạng quản lý rơm rạ ở đồng bằng sông Cửu Long; Thực hiện các nghiên cứu khoa học về thực hành quản lý rơm rạ tốt dựa trên các yếu tố đa dạng sinh học, phát thải carbon, cân bằng dinh dưỡng; Ứng dụng công nghệ phù hợp với quy mô canh tác vào quản lý rơm rạ.

“Cần có các giống lúa thích ứng biến đổi khí hậu, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng và thị hiếu của người tiêu dùng. Phát triển nhanh chóng diện tích canh tác lúa thích ứng với biến đổi khí hậu và phát thải carbon thấp. Theo đó, mở rộng ứng dụng các kỹ thuật canh tác như: tưới ngập - khô xen kẽ (AWD), gieo sạ chính xác, quản lý rơm rạ và phụ phẩm; hỗ trợ phát triển thị trường tín dụng carbon lúa gạo… Trong đó, riêng kinh tế tuần hoàn từ rơm rạ có thể giảm tới 30% phát thải carbon trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu và bản đồ hiện trạng quản lý rơm rạ ở đồng bằng sông Cửu Long; Thực hiện các nghiên cứu khoa học về thực hành quản lý rơm rạ tốt dựa trên các yếu tố đa dạng sinh học, phát thải carbon, cân bằng dinh dưỡng; Ứng dụng công nghệ phù hợp với quy mô canh tác vào quản lý rơm rạ.

TS Nguyễn Văn Hùng- Viện Nghiên cứu lúa gạo Quốc tế (IRRI

Ngoài ra, để phát triển bền vững ngành lúa gạo cũng cần ban hành quy định các nhà máy phải mua lúa có nguồn gốc để có thể thực hiện truy xuất nguồn gốc nông sản, phù hợp với các quy định của Việt Nam và thế giới. Có cơ chế hỗ trợ vốn để trang bị máy móc đồng bộ, tăng năng suất lao động nông nghiệp và giảm giá thành sản xuất lúa. Đối với máy nông nghiệp cần có nguồn vốn tài trợ trong vòng 5 năm cho các máy làm đất, máy phun thuốc, xạ giống, xạ phân, thu hoạch. Đồng thời hỗ trợ xây dựng hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, đánh giá) đạt chuẩn quốc tế để có thể xác nhận việc trồng lúa giảm phát thải, tạo ra chứng chỉ carbon có thể thương mại hóa trên thị trường thế giới.

back to top