Ðường lối chiến tranh nhân dân đánh bại âm mưu chiến lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ


Cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Ðông Dương kết thúc bằng trận Ðiện Biên Phủ đã đi vào lịch sử; diễn tiến và những bài học của nó đã ghi đậm vào trang sử của hai quốc gia: Pháp và Việt Nam.

Tôi được biết, cuối tháng 11-2003 vừa qua, người Pháp đã mở đầu cuộc kỷ niệm 50 năm trận Ðiện Biên Phủ bằng việc tổ chức tại thủ đô Pa-ri một cuộc hội thảo khoa học lớn có nhan đề: "1954-2004: Trận Ðiện Biên Phủ, lịch sử và ký ức" do Trường đại học Pa-ri 1 Păng-tê-ông, Xoóc-bon và Trung tâm nghiên cứu lịch sử quốc phòng Bộ Quốc phòng Cộng hòa Pháp phối hợp tổ chức, có hơn 300 nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử chiến tranh và các cựu chiến binh Pháp đã từng tham gia trận Ðiện Biên Phủ tới dự. Tại cuộc hội thảo khoa học này, nhiều người đã nói rằng, sở dĩ Pháp thua trận ở Ðông Dương là do phía Pháp có ba sai lầm:

Một là, do tướng Na-va kém.

Hai là, do nội bộ Chính phủ Pháp lúc đó lục đục.

Ba là, do Pháp phải phân tán lực lượng và tiền bạc - vừa phải cho chiến tranh lạnh vừa phải cho chiến tranh nóng ở Ðông Dương.

Chúng ta nên nhìn nhận những ý kiến này như thế nào?

Trước hết, kể từ khi quân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ, mở đầu cuộc chiến tranh tái chiếm Việt Nam - tháng 8-1945, đến khi kết thúc chiến tranh - tháng 7-1954, Chính phủ thực dân Pháp đã lần lượt cử bảy Cao ủy và tám Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Ðông Dương (1). Ðây là những tướng lĩnh tài ba có tiếng của quân đội Pháp lúc bấy giờ. Ðầu tháng 5-1953, Hăng-ri Na-va - viên tướng tài năng đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Lục quân Trung Âu thuộc khối Bắc Ðại Tây Dương, được Thủ tướng R.May-e gọi từ Tây Ðức trở về Pa-ri để sang Ðông Dương thay cho tướng Xa-lăng làm Tổng chỉ huy. Như vậy không thể nói Na-va là vị tướng "kém". Hơn nữa, trước khi thảo ra bản "Kế hoạch Na-va", viên Tổng chỉ huy này đã bay sang Ðông Dương thị sát rất kỹ tình hình mọi mặt của chiến trường. Sau khi lấy ý kiến của Hội đồng các Tham mưu trưởng và một số nhân vật quan trọng trong nội các, ngày 24-7-1953, Na-va đã trình bày và thông qua bản kế hoạch trước Hội đồng Quốc phòng. Tham dự có: Thủ tướng La-ni-en, Phó Thủ tướng Rây-nô, Bộ trưởng Quốc phòng Plê-ven, Ngoại trưởng Bi-đôn, Quốc vụ khanh phụ trách vấn đề thuộc địa M.Giắc-kê; các bộ trưởng: Tài chính, Tư pháp, Lục quân, Hải quân, Không quân; Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và Tham mưu trưởng ba quân chủng. Ðặc biệt, kế hoạch của Na-va đã được Chính phủ Mỹ quan tâm và thông qua. Trong chiến tranh Ðông Dương, Pháp đã lần lượt cho ra đời năm bản kế hoạch (2), trong đó "Kế hoạch Na-va" là bản thứ năm - bản cuối cùng. Như vậy, có thể nói đây là sản phẩm trí tuệ của cả bộ máy chiến tranh của Pháp và can thiệp Mỹ, chứ không còn là tác phẩm của riêng Na-va nữa. Ngày 22-10-1953, trên diễn đàn quốc hội Pháp, Thủ tướng La-ni-en nói: "Kế hoạch Na-va chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mỹ cũng tán thành. Nó cho phép hy vọng đủ mọi điều". Lời nói này đã thú nhận điều đó.

Hai là, do nội bộ chính quyền Pháp lục đục, lý do này có phần đúng. "Có phần" thôi vì không phải từ chỗ nội bộ lục đục nên dẫn đến thua, mà ngược lại, vì sa lầy, bế tắc, thất bại liên tiếp trên chiến trường Việt Nam và Ðông Dương là một trong những yếu tố nặng cân dẫn đến sự lục đục, bất đồng trong chính giới Pháp. Ðồng thời, bên chính quốc càng bất ổn thì càng ảnh hưởng xấu tới "chiến trường thuộc địa" - hai phía có quan hệ biện chứng, tác động ảnh hưởng lẫn nhau là rất rõ. Trong chín năm tiến hành xâm lược Việt Nam và Ðông Dương, Cộng hòa Pháp có tới 20 đời Thủ tướng bị đổ (3), bảy lần thay đổi Cao ủy, tám lần đổi tướng Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Ðông Dương.

Ngay tại thời điểm khởi đầu của "Kế hoạch Na-va", ngày 7-5-1953, Na-va nhậm chức Tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Ðông Dương. Ngày 18-5, Na-va bay sang thị sát Ðông Dương, thì ba hôm sau, ngày 21-5-1953, May-ơ từ chức Thủ tướng vì không sao chèo chống nổi con thuyền chính trị của đất nước khi mà mức thiếu hụt ngân sách lên tới 730 triệu phrăng, lạm phát 2.000 tỷ phrăng và số người thất nghiệp trong nước là hơn ba triệu. Nước Pháp lại lâm vào khủng hoảng nội các hơn một tháng. Liên tiếp bốn đại diện của các chính đảng tư sản là Rây-nô (đảng Ðộc lập), Măng-đét Phơ-răng (đảng Cấp tiến), Bi-đôn (đảng Cộng hòa bình dân) và Ma-ri (đảng Cấp tiến) đứng ra thành lập nội các mới, nhưng đều không một ai giành nổi đa số phiếu tán thành trong quốc hội. Không thể kéo dài mãi tình trạng một đất nước không có chính phủ, tháng 6-1953, Quốc hội Pháp buộc phải chấp nhận để La-ni-en đứng ra lập nội các mới. Trong lễ nhậm chức, viên Thủ tướng thứ 19 này hứa sẽ cố gắng đi tới chấm dứt cuộc chiến tranh ở Ðông Dương bằng giải pháp thương lượng theo những điều kiện phía Pháp có thể chấp nhận được, và kêu gọi các "chính phủ quốc gia liên kết ở Ðông Dương" hãy cùng Mỹ chia sẻ với Pháp gánh nặng chiến tranh.

Lý do thứ ba họ nêu sở dĩ bị thua là do Pháp cùng lúc phải phân tán lực lượng và tiền bạc để thực hiện cả chiến tranh lạnh và chiến tranh nóng. Từ năm 1949, Pháp tham gia khối quân sự NATO do Mỹ điều khiển để chống phá phong trào giải phóng dân tộc và đối đầu với Liên Xô. Tuy Pháp có chuyện phải phân tán lực lượng, nhưng từ 1950, Pháp lại được đế quốc Mỹ trợ giúp hơn 73% chi phí chiến tranh. (Chiến phí của chín năm chiến tranh Ðông Dương lên gần 3.000 tỷ phrăng, trong đó Mỹ viện trợ chiếm 1.200 tỷ phrăng, tương đương 2,7 tỷ USD. Riêng 1954, viện trợ Mỹ chiếm 73,9% chiến phí). Mỹ không chỉ giúp Pháp về kinh phí mà còn giúp cả về mưu mô, trí tuệ. Nhiều nhân vật trong chính giới, tướng lĩnh Mỹ, trong đó có cả Phó Tổng thống Níc-xơn và Tổng tham mưu trưởng liên quân đã trực tiếp tham gia ý kiến vào "Kế hoạch Na-va" và những giải pháp để thực hiện nó, kể cả trong những ngày mà kế hoạch này sắp cáo chung, khi Ðiện Biên Phủ và Ðông Dương đang "hấp hối" (4).

Như vậy, cả ba lý do trên vẫn chỉ là lý do để biện minh cho nguyên nhân thất bại của Pháp. Cho đến nay, người Pháp đã tốn khá nhiều giấy mực để viết về cuộc chiến tranh Ðông Dương và trận Ðiện Biên Phủ. Nhưng chừng nào chưa nhận chân ra cái nguyên nhân cốt lõi nhất, mang tính bản chất nhất thì chừng ấy chưa thể lý giải được một cách đầy đủ vì sao quân xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ lại thua trận ở Ðông Dương mà tâm điểm là Việt Nam.

Trong chúng ta, nhiều người cho rằng, sở dĩ Pháp thua thì có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do Pháp cố tình duy trì chủ nghĩa thực dân cũ đã quá lỗi thời (Năm 1944, Ðờ-gôn, Tổng thống kiêm Thủ tướng Pháp tuyên bố tái chiếm Ðông Dương, nhưng mãi đến 1954, Ðờ-gôn mới chịu thú nhận sự lạc hậu trong tư duy chiến lược và trong tổ chức bộ máy cai trị thực dân cũ của Pháp). Lý do này có phần đúng nhưng chưa phải là tất cả, chưa phải là nguyên nhân cốt lõi. Bởi, nếu nói Pháp thua chỉ vì Pháp duy trì chủ nghĩa thực dân cũ đã lỗi thời, vậy thì tại sao sau đó, khi Mỹ hất cẳng Pháp và nhảy vào xâm lược Việt Nam và Ðông Dương, Mỹ áp dụng chủ nghĩa thực dân mới nhưng rốt cuộc Mỹ vẫn thua, thậm chí còn thua đau, thua đậm hơn Pháp?

Vậy thì, ta có thể khẳng định: Nguyên nhân bao trùm nhất, lý do mang tính bản chất nhất ở đây là - từ mục tiêu chính trị hết sức sai lầm, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa, cho nên Pháp không có tiềm lực về chính trị tinh thần. Càng hung hăng rồi càng sa lầy vào cuộc chiến chinh phục, nội các Pháp càng lục đục đổ lên đổ xuống, nhân dân Pháp càng khó khăn, suy quẫn và oán hận, ý chí quân đội của Pháp càng sa sút. Từ sai lầm về chiến lược nên mới khó gỡ về chiến dịch và chiến thuật. Bộ máy lãnh đạo chiến tranh của Pháp luôn phải đối mặt với một mâu thuẫn gay gắt là: Muốn đánh nhanh thì lại phải đánh lâu dài. Muốn tập trung sức mạnh quân sự để đánh những đòn tiến công, giải quyết nhanh chiến cuộc nhưng lại phải quá phân tán, phần lớn số quân phải rải ra để chiếm đóng, quân chủ lực cơ động còn lại quá ít - tình thế này thì tướng tài giỏi đến đâu cũng chịu bó tay.

Sau cuộc huy động tổng lực tiến công lên Việt Bắc thu - đông năm 1947 thất bại, ý tưởng chiến lược "Ðánh nhanh, thắng nhanh" bị phá sản, bộ máy chỉ đạo chiến tranh của Pháp tuy buộc phải chuyển sang ý tưởng chiến lược đánh lâu dài, nhưng thực chất ý đồ bao trùm xuyên suốt của những kẻ đi chinh phục bao giờ cũng muốn "giải quyết nhanh", càng không bao giờ muốn rơi vào trạng thái sa lầy.

Từ mục tiêu chính trị sai lầm, sau cuộc "ra quân đầu tiên" thất bại, thực dân Pháp buộc phải chuyển sang kế hoạch đánh lâu dài, như vậy tư duy chiến lược phải thay đổi trong tình thế hoàn toàn bị động. Và, đứng trước thực trạng khó khăn về nhiều mặt: Quân đội vừa thiếu vừa phải phân tán, nội các lục đục bất ổn định, kinh tế - xã hội sa sút, lòng dân không đồng tình mà còn oán giận..., bộ máy chiến tranh của Pháp buộc phải đẻ ra và áp dụng tư tưởng chiến lược "Dùng người Việt đánh người Việt - Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Ðến đây có thể nói, mô hình của chủ nghĩa thực dân cũ đã có dấu hiệu cáo chung, vì thực chất tư tưởng "Dùng người Việt đánh người Việt..." đã mang mầu sắc của chủ nghĩa thực dân mới. Bộ óc chiến tranh Pháp những tưởng đó là sáng kiến được nảy nở trong lúc khó khăn quẫn bách, nào ngờ "tư tưởng chiến lược" này lại rơi đúng vào ý đồ của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Và Mỹ đã tận dụng triệt để cơ hội này.

Chính phủ La-ni-en vừa lên cầm quyền phải chấp nhận giảm chi phí ngân sách cho chiến tranh Ðông Dương trước nạn thâm hụt ngân sách quốc gia và gia tăng lạm phát. Trước thực trạng này, không còn cách nào khác là kêu gọi Mỹ tăng viện trợ từ 200 tỷ phrăng (năm 1952) lên 270 tỷ (1953), chiếm 46% tổng chiến phí. Lợi dụng tình hình này, Mỹ đòi Pháp phải nới rộng quyền hạn cho chính phủ ngụy quyền. Trước sức ép của Mỹ, Pháp phải giao chính phủ ở Việt Nam cho Bảo Ðại. Ðáp lại, ngày 15-7-1953, Quốc trưởng bù nhìn Bảo Ðại đã ký sắc lệnh "Tổng động viên". Và, ngày 21-7, theo lời mời của Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao, Thủ tướng bù nhìn Nguyễn Văn Tâm đã lên đường sang Mỹ.

Tư tưởng chiến lược của bọn đế quốc xâm lược ở Ðông Dương thật sự đang chuyển dần từ chủ nghĩa thực dân cũ sang chủ nghĩa thực dân mới. Nói cách khác là Pháp buộc phải bấu víu vào Mỹ, lấy Mỹ làm chỗ dựa duy nhất để tiến hành chiến tranh. Ngược lại, Mỹ đã tận dụng cơ hội này để chuyển dần cuộc chiến theo ý tưởng của mình, theo chiều hướng có lợi cho mình. Nhưng! Cả Pháp, cả Mỹ và cả chính quyền bù nhìn tay sai người Việt đều bất ngờ khi vấp phải chiến tranh nhân dân của ta. Chính đường lối "Chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh" mà Ðảng và Bác Hồ đã chỉ ra và lãnh đạo xuyên suốt cuộc kháng chiến, đã tạo nên sức mạnh to lớn, cộng với phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân bị áp bức ở các nước thuộc địa, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ngay trong lòng các nước tư bản đế quốc, đặc biệt là chúng ta được tiếp thêm sức mạnh từ Liên Xô và Trung Quốc (từ khi đã giải phóng). Tất cả, như đồng chí Lê Duẩn đã nói, sức mạnh của dân tộc đã hòa cùng sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp tạo nên thế và lực vô biên của cách mạng Việt Nam, áp đảo, đè bẹp quân thù.

Hôm nay, sau 50 năm kể từ khi trận Ðiện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp toàn thắng, nhìn lại, chúng ta thấy có nhiều nguyên nhân to lớn, nhiều bài học giá trị của thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhưng to lớn nhất, bao trùm nhất và xuyên suốt nhất vẫn là đường lối "Chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh". Nói một cách khác, vạch ra đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo; đồng thời phát động, tổ chức được toàn dân chống ngoại xâm là công lao lớn của Ðảng ta, và đó là yếu tố quyết định nhất đưa kháng chiến đến thắng lợi.

Tư duy chiến lược của đường lối chiến tranh nhân dân bắt đầu xuất hiện từ lời kêu gọi của Bác Hồ trước cuộc cách mạng long trời lở đất Tổng khởi nghĩa Tháng 8-1945 "Lấy sức ta giải phóng cho ta".

Hai tháng sau khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, ngày 25-11-1945, Trung ương Ðảng ra Chỉ thị kháng chiến - kiến quốc, vạch rõ hai nhiệm vụ chiến lược là chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng đất nước. Cùng dịp này, Chủ tịch

Hồ Chí Minh viết văn kiện Công việc khẩn cấp bây giờ, đề ra những công việc cần kíp cho toàn Ðảng, toàn dân ta sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược đang tới gần. Những văn kiện nói trên cùng với Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19-12-1946), Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Ðảng (22-12-1946) và một loạt bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, đã trở thành những quan điểm cơ bản về đường lối kháng chiến của Ðảng ta - "Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh" - súc tích nhưng rất dễ hiểu ngay cả với những người dân bình thường. Nhờ đó, quân và dân ta trên khắp mọi miền đất nước, kể cả những chiến trường xa Trung ương, triệu người như một, bình tĩnh, kỷ luật, hành động nhất tề. Nhân dân ta tránh được những bước đi mò mẫm, quanh co, giảm được nhiều tình huống ấu trĩ, sai lầm, vấp váp, sớm tạo được lòng tin vào tiền đồ tất thắng của kháng chiến. Cuộc chiến đấu trên cả nước ngay từ những màn đầu tiên diễn ra khá "bài bản", hướng toàn dân toàn quân về một mục tiêu: Chiến đấu vì độc lập, tự do, giữ gìn độc lập vừa giành được qua Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Chính vì thế mà ngay từ những ngày nổ súng chiến đấu đầu tiên, mặc dù quân địch hơn hẳn ta về vũ khí, trang bị, nhưng chúng ta đã tạo được sức mạnh từ thế trận chiến tranh nhân dân, cả ở Sài Gòn - Nam Bộ tháng 9-1945, cả ở Hà Nội mùa đông 1946, đã thực hiện thắng lợi chủ trương vừa kìm giữ chân quân địch để tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị bước vào kháng chiến, vừa đánh bại bước đầu kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của đội quân xâm lược.

Ðể phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân đánh bại chiến tranh tổng lực của giặc Pháp, Ðảng ta chủ trương đánh địch trên mọi mặt trận, kháng chiến toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, binh vận... tức là đánh thắng bằng sức mạnh tổng hợp. Ðánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị. Tuy nhiên, trong chiến tranh thì Ðảng ta coi quân sự là đòn chủ chốt, giương cao khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng". Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hóa đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi.

Bị tiến công liên tục và bằng nhiều mũi, trên nhiều phương diện như vậy, quân địch không có cách gì chống đỡ nổi - binh lực hao tổn, kinh tế kiệt quệ, bị cô lập về chính trị, cuối cùng phải chấp nhận thua cuộc bằng "đòn đấu tranh ngoại giao" kết thúc chiến tranh của chúng ta.

Suy cho cùng, thắng lợi của cuộc chiến tranh tùy thuộc thực lực. Cũng chính trên nền tảng của đường lối chiến tranh nhân dân mà suốt chín năm kháng chiến, Ðảng đã xây dựng được lực lượng về mọi mặt, vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng chiến đấu, từ không đến có, từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn; xây dựng tiềm lực quân sự mạnh trên cơ sở xây dựng lực lượng chính trị rộng khắp, vững chắc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương căn cứ địa kháng chiến, coi trọng xây dựng chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân. Vì chăm lo xây dựng lực lượng mà càng đánh giặc, thế ta càng vững, lực ta càng mạnh, để cuối cùng làm nên một Ðiện Biên Phủ chấn động dư luận thế giới.

Tôi còn nhớ ở Nam Bộ, những chiến khu, căn cứ như: An Phú Ðông, Rừng Sác, Vườn Thơm, Dương Minh Châu, chiến khu Ðồng Tháp Mười, chiến khu Ð, rồi những vùng giải phóng của ta ở Khu 9, Khu 5, Khu 4, (chuyến đi ra Việt Bắc đầu tiên, tôi thấy chỉ có chỗ cực Nam Trung Bộ quân địch chiếm đóng và o ép, quân dân ta rất cơ cực, còn suốt dải đất Khu 6, Khu 5, rồi ra đến Khu 4, dải Thanh - Nghệ đều là vùng giải phóng của ta), rồi lên đến chiến khu Việt Bắc - những chiến khu và vùng giải phóng là nơi tổ chức, xây dựng lực lượng kháng chiến, nơi dưỡng quân để mở các chiến dịch tiến công của quân ta. Sức mạnh của đường lối chiến tranh nhân dân thần kỳ ở chỗ: Ta có những vùng giải phóng, vùng chiến khu mà địch lại không thể và không bao giờ thực hiện được sự "phân tuyến" để nó phát huy được uy lực của phi pháo vốn là chỗ rất mạnh của chúng. Bởi vì chiến tranh nhân dân của ta còn được gây dựng và phát huy ngay trong vùng địch tạm chiếm với nhiều phương thức đấu tranh vô cùng phong phú, độc đáo và thiên biến vạn hóa. Chẳng hạn như tại vùng đô thị lớn Sài Gòn - Gia Ðịnh, phong trào diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ tuy ở từng thời điểm, từng nơi diễn ra ở mức độ khác nhau, nhưng nó đã diễn ra ngay trong lòng đô thị. Rồi có những cuộc biểu tình của nhân dân lao động, thợ thuyền, trí thức ở những quy mô khác nhau mà điển hình là cuộc biểu tình nổ ra giữa Sài Gòn ngày 19-3-1950 của hơn 30 vạn người chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ xâm lược, nghe luật sư Nguyễn Hữu Thọ diễn thuyết (5). Rồi có những trận đánh của tự vệ đã không chỉ diệt được ác ôn, binh lính địch, mà còn đánh vào cơ quan sinh lực cao cấp của Pháp, lực lượng dân quân tự vệ này về sau phát triển thành các đơn vị biệt động thành với lối đánh ngày càng mưu mẹo, quả cảm, đạt hiệu suất cao. Rồi các trận đánh phá kho tàng của giặc Pháp mà điển hình là trận đánh của Tiểu đoàn 306 Gia Ninh, phá hủy kho bom đạn dự trữ chiến lược của địch ở Phú Thọ Hòa, tại nội đô Sài Gòn, với hơn một triệu lít xăng dầu, một vạn tấn bom đạn, diệt một đại đội lính Âu Phi, bức rút đồn Gò Lũy tháng 6-1954 (6). Cũng cần nói thêm rằng, ở các khu căn cứ khi ta gặp nhiều khó khăn về đời sống, thì lúa gạo từ vùng đồng bằng sông Cửu Long trù phú đã được chuyển lên Sài Gòn - Gia Ðịnh. Rồi gạo, thuốc men, hàng nhu yếu phẩm từ Sài Gòn - Gia Ðịnh lại được chuyển ra các căn cứ kháng chiến. Ở miền bắc cũng tương tự. Ðây là một chủ trương rất sáng tạo, không xây dựng trên nền tảng của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện thì không thể làm được như vậy. Và cũng chỉ có người dân cách mạng mới làm được như vậy. Sức mạnh của cách mạng, của chiến tranh nhân dân tiềm ẩn ở mọi nơi, bộc lộ và phát huy, phát triển ở mọi nơi.

Với chiến lược toàn dân kháng chiến, Ðảng và Bác Hồ đã tổ chức cả nước thành một mặt trận. Với khẩu hiệu Mỗi quốc dân là một chiến sĩ, mỗi xóm làng là một pháo đài, người Việt Nam yêu nước nào cũng đánh giặc, địa  phương nào cũng đánh giặc. Khắp Trung, Nam, Bắc, không phải chỉ có quân đội đánh giặc mà toàn dân đánh giặc. Không những vùng tự do đánh giặc mà vùng tạm chiếm cũng đánh giặc; đồng bào nông thôn đánh giặc, đồng bào đô thị cũng đánh giặc; miền xuôi đánh giặc, miền núi cũng đánh giặc. Ðáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hầu hết nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ đều lên chiến khu, ra bưng biền tham gia kháng chiến. Và, chỉ sau ba tháng toàn quốc kháng chiến, Ðảng ta nhận định: "Cuộc kháng chiến được toàn dân tham gia, đồng bào lao động hăng hái tác chiến, đồng bào tư sản, địa chủ hy sinh của cải không nề hà, nói chung đồng bào Phật giáo, Công giáo, Cao Ðài, Hòa Hảo, quốc dân thiểu số và đa số đều chung sức đánh giặc" (7).

Nhờ sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, ta đã khắc phục được nhược điểm, khó khăn tưởng chừng không thể nào khắc phục được. Nhờ toàn dân đánh giặc, nền kinh tế tài chính kiệt quệ đã được xây dựng, bảo đảm đời sống cho các tầng lớp nhân dân trong chiến tranh không bị đảo lộn lớn, lại có khả năng cung cấp ngày càng nhiều cho tiền tuyến. Nhờ toàn dân kháng chiến, quân đội ta từ du kích, phân tán, trang bị thô sơ đã tiến lên tập trung, chính quy, có lực lượng cơ động chiến lược mạnh và lực lượng chiến đấu tại chỗ đông đảo. Nhờ toàn dân kháng chiến mà ta ở trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, đất nước bị chia cắt làm nhiều mảnh, chính quyền nhân dân vẫn đứng vững, ngày càng phát huy vai trò quản lý, điều hành mọi công việc kháng chiến, kiến quốc, xây dựng xã hội mới. Toàn dân kháng chiến là yếu tố quyết định thắng lợi, là quy luật cơ bản của cuộc kháng chiến chống Pháp. Thực tiễn đã chỉ rõ, nơi nào và lúc nào không nắm vững quy luật đó, sẽ gặp khó khăn tổn thất.

Trên thực tế, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã trải qua ba giai đoạn: Từ kháng chiến Nam Bộ (23-9-1945) đến chiến thắng Việt Bắc (Thu Ðông 1947) là giai đoạn mà quân và dân ta giữ vững và phát triển lực lượng, kiềm chế và tiêu hao lực lượng địch, triển khai thế trận chiến tranh nhân dân trên phạm vi cả nước. Từ sau Thu Ðông 1947 đến trước chiến dịch Biên giới (Thu Ðông 1950) là một giai đoạn cả nước phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích, từng bước đẩy vận động chiến tiến tới, chuẩn bị thế và lực để phản công. Từ chiến dịch Biên giới, quân và dân ta bước vào giai đoạn phản công và tiến công.

Với chiến lược toàn dân kháng chiến, nhân dân ta đã tiến hành một kiểu chiến tranh không rõ đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương, một cuộc chiến tranh xen kẽ triệt để giữa ta và địch. Chiến tranh nhân dân rộng rãi của ta đã cột chặt đội quân viễn chinh Pháp vào những mâu thuẫn không thể nào gỡ nổi, đó là mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung, giữa phòng ngự và tiến công, giữa đánh nhanh và đánh kéo dài, làm cho lực lượng vật chất của chúng càng bị hao mòn, ý chí xâm lược của chúng càng sa sút, tinh thần binh lính hoang mang, mệt mỏi và chán nản, để cuối cùng ta đánh bại chúng.

Tư tưởng chiến lược "Dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp ra đời trong tình thế bị động và khó khăn vì chúng không thể tăng quân đội Âu Phi được nữa; lính ngụy Việt thì chỉ làm được chức năng chiếm đóng và càn quét; lính đánh thuê thì càng sa sút về tinh thần, mà ví dụ điển hình là sau khi ta đánh dứt điểm cứ điểm Him Lam, ta kêu gọi, quân lính ở cứ điểm Bản Kéo đã ra hàng hơn 200 tên.

Chính từ sức mạnh và hiệu quả của chiến tranh nhân dân của ta đã đẩy bộ máy chiến tranh xâm lược của Pháp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ở giai đoạn cuối, lực lượng của chúng quá mỏng, lại quá phân tán để giữ những vị trí đã chiếm đóng và các nơi đang bị uy hiếp (8). Sai lầm về quân sự của Pháp bắt nguồn từ sai lầm về chính trị. Khi đã mất gần hết địa bàn Tây Bắc thì không thể thực hiện việc tập trung lực lượng chủ lực cơ động để đánh đòn quyết định. Cả chiến trường Bắc Bộ, Pháp có 44 tiểu đoàn thì phải đưa 21 tiểu đoàn lên Ðiện Biên Phủ. Ở đây, Pháp còn phạm một sai lầm chí tử nữa, đó là ý đồ giải quyết một trận quyết chiến chiến lược để kết thúc chiến tranh, mà trận quyết chiến này lại ở xa hậu phương. Na-va cũng ý thức được chữ "xa" khi quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm này, nhưng y lại cho rằng cả hai bên đều bị xa, trong đó, với phương tiện vận tải đường bộ và nhất là ưu thế đường không của mình, quân Pháp không có gì trở ngại; ngược lại, quân đội Việt Minh không thể nào cơ động lực lượng lớn, hậu cần bảo đảm, nhất là không thể mang được pháo lớn lên Ðiện Biên Phủ. Bởi vậy, Na-va và cả bộ máy lãnh đạo chiến tranh của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đều chủ quan và đắc ý cho rằng, nếu Việt Minh đưa quân lên thì Ðiện Biên Phủ sẽ là cái "cối xay thịt". Na-va chỉ nhìn thấy ưu thế hơn hẳn của quân Pháp về máy bay và sức vận tải cho Ðiện Biên bằng đường không. Nhưng khi bị cao xạ của ta cắt đứt tuyến đường không thì quân Pháp ở lòng chảo Ðiện Biên rơi vào tình thế bị cô lập hoàn toàn. Tại quyết chiến điểm Ðiện Biên Phủ, cả hai bên đều xa hậu phương, đều khó khăn về tiếp tế hậu cần; phía Pháp tự tin rằng họ có ưu thế để khắc phục hơn hẳn đối phương. Sai lầm nặng nhất ở đây là họ chỉ tính theo kiểu tuần tự, siêu hình, kinh nghiệm chủ quan vì họ không thể hiểu theo phép biện chứng của triết học Mác-xít. Cái bất ngờ lớn nhất của Pháp lại chính là sức mạnh của công tác tổ chức của chúng ta, sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Họ chỉ nhăm nhăm nghĩ rằng vì Việt Minh không thể đưa nhiều quân lên, thì "con nhím Ðiện Biên Phủ" vừa là cánh cửa thép chặn đứng Việt Minh sang Thượng Lào, vừa là bàn đạp để họ đánh tỏa ra, chiếm lại vùng Tây Bắc đã mất. Họ chỉ nhăm nhăm nghĩ rằng, hỏa lực, nhất là phi pháo của quân đội Pháp đã thả sức biến vùng lòng chảo này thành "cối xay thịt" đối với quân đội Việt Minh. Cũng như ngày đầu quyết định tái xâm lược Ðông Dương, bộ máy chiến tranh Pháp chủ quan nói rằng "Ðây chỉ là một cuộc dạo mát; chỉ 18 tháng là bình định hoàn tất!", vậy mà phải kéo dài đến chín năm, và cuối cùng là thất bại. Bộ chỉ huy quân Pháp ở Ðông Dương càng không thể ngờ được, với đường lối chiến tranh nhân dân siêu việt của Ðảng ta, cả nước đã hướng về Ðiện Biên, dồn sức cho Ðiện Biên với nỗ lực cao nhất, nhưng đồng thời là tổ chức chỉ huy khoa học nhất, cả nước gồng lên nhưng uyển chuyển nhịp nhàng đã tạo nên một sức mạnh phi thường cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Trong tư tưởng chiến lược của mình, thực dân Pháp luôn nhằm vào hai mục tiêu: Một là tiêu diệt chủ lực của ta, hai là xây dựng ngụy quân, ngụy quyền vững mạnh để dùng người Việt đánh người Việt. Nhưng khi quyết định nhảy lên Ðiện Biên, cả hai mục tiêu trên đều không thực hiện được. Vì lúc đầu, khi chúng mới nhảy dù lên thì chủ lực của ta không có ở đó. Về sau chủ lực ta lên thì không những quân Pháp không tiêu diệt được mà ngược lại, chúng lại tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiêu diệt chúng, vì đánh địch trên địa bàn rừng núi vốn là sở trường của bộ đội ta. Về mục tiêu thứ hai, để xây dựng ngụy quân ngụy quyền thì cũng không phải và không thực hiện được vì ở vùng Tây Bắc nhân tài vật lực không có bao nhiêu, kể cả ở Thượng Lào cũng vậy. Sai lầm của thực dân Pháp đã bộc lộ rõ khi quyết định lên Ðiện Biên.

Chúng ta khát vọng tự do, thậm chí đã có lúc chúng ta công bố muốn vào khối liên hiệp Pháp; nhưng chính phủ của chủ nghĩa thực dân Pháp cứ áp đặt chiến tranh, thì ta, phát động, xây dựng và thực thi đường lối chiến tranh nhân dân, ta bắt bộ máy chiến tranh của Pháp phải từng bước thay đổi chiến lược, bắt quân viễn chinh Pháp phải đánh theo cách đánh của ta, từ chỗ chúng chủ động, ta bắt chúng đi đến bị động, lúng túng, sai lầm, quẫn bách và thất bại thảm hại.

Chúng ta chiến đấu vì độc lập, tự do, vì chính nghĩa, nên càng kháng chiến càng được bạn bè quốc tế đồng tình ủng hộ. Lính Âu Phi ta bắt được ở các mặt trận, nhất là ở Ðiện Biên Phủ: người Ma-rốc, Tuy-ni-di, An-giê-ri... ta giáo dục họ, đối xử tử tế với họ rồi thả về nước, đã có tác động ghê gớm đến tinh thần và ý chí giải phóng dân tộc của nhân dân các nước đang là thuộc địa của tư bản - đế quốc. Ðiều này đã được nhiều người thừa nhận. Chẳng hạn, ông Ma-ra-đây Cây-ta, trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Ma-li sang thăm Việt Nam tháng 10-1961 cho biết, nhiều người Ma-li bị đưa sang Việt Nam làm bia đỡ đạn được tiếp xúc với các chiến sĩ Việt Nam đã hiểu rõ và giác ngộ về hoàn cảnh của mình. Số đông khi về nước đã đứng cạnh các đồng chí của mình trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc (9).

Chỉ trong sáu năm sau trận Ðiện Biên Phủ, trên thế giới đã có thêm 36 nước giành độc lập, riêng châu Phi (phần lớn là thuộc địa của Pháp) đã có 20 nước giành độc lập.

Như vậy, một mặt phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã hỗ trợ tích cực cuộc kháng chiến của ta; mặt khác, cuộc kháng chiến của ta đã tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa. Chủ nghĩa thực dân cũ đến những năm 60 của thế kỷ 20 trở đi đã bước vào giai đoạn bị thanh toán hoàn toàn. Ðây là điều kiện cơ bản để năm 1960, Ðại hội đồng Liên hợp quốc khóa XV thông qua nghị quyết về chống thực dân hóa, buộc các nước phương Tây phải trao trả độc lập cho các nước thuộc địa và phải thừa nhận quyền độc lập của các dân tộc này. Rõ ràng, cuộc chiến đấu oanh liệt của chúng ta không chỉ vì độc lập cho Tổ quốc ta, tự do cho nhân dân ta, mà còn vì cả phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa. Trận Ðiện Biên Phủ và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi mang một ý nghĩa thời đại, một tầm vóc to lớn. Ðây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của nhân loại tiến bộ trong thế kỷ 20. Diễn tiến và kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến thần thánh này đã khẳng định một chân lý: Sức mạnh kỳ diệu của đường lối chiến lược chiến tranh nhân dân của Ðảng ta đã làm thất bại thảm hại tư tưởng chiến lược "Dùng người Việt đánh người Việt - Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của thực dân Pháp xâm lược. Bài học quý giá từ đường lối và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân đã được toàn Ðảng, toàn dân ta vận dụng và phát triển phong phú hơn, sâu sắc hơn, tài tình hơn trong giai đoạn hai của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại - giai đoạn chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc. 

Đại tướng LÊ ĐỨC ANH

.................................................

(1) Bảy Cao ủy gồm:

- Th. Ðác-giăng-li-ơ (từ 8-1945)

- E.Bô-la-éc (từ 3-1947)

- L.Prơ-nhông (từ 9-1948)

- J.Ðờ-lát Ðờ Tát-xi-nhi (từ tháng

12-1950).

- J.Lơ-tuốc-rơ-nô (từ 12-1951).

- M.Ðờ Giăng (từ 6-1953).

- P.E-li (từ 6-1954)

- Tám Tổng chỉ huy gồm:

- Ph. Lơ-cléc (từ 8-1945)

- E.Va-luy (từ 7-1946)

- H.Ble-dô (từ 5-1948)

- M.Các-păng-ti-ê (từ 9-1949)

- J.Ðờ-lát (từ 12-1950)

- R.Xa-lăng (từ 12-1951)

- H.Na-va (từ 5-1953)

- P.E-li (từ 6-1954)

Trong đó có hai Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy là:

- Giăng Ðờ-lát Ðờ Tát-xi-nhi (1950)

- Pôn E-li (1954).

(2) Gồm: 1 - Kế hoạch Ðác-giăng-li-ơ

(8-1945). 2 - Kế hoạch Lơ-cléc có "Kế hoạch 1 (8-1945) - chung toàn Ðông Dương" và "kế hoạch 2 (9-1945) - Riêng với Nam Kỳ". 3 - Kế hoạch Rơ-ve (7-1949).

4 - Kế hoạch Ðờ-lát Ðờ Tát-xi-nhi (1951) và 5 - Kế hoạch Na-va (7-1953).

(3) 20 đời thủ tướng lần lượt đổ và thay thế nhau là: Sác-lơ Ðờ Gôn (lập 8-1944, đổ 1-1946), Ph.Gu-anh (lập 1-1946, đổ

6-1946). G.Bi-đôn (lần thứ nhất lập 6-1946, đổ 11-1946). L.Blum (lập 12-1946, đổ

1-1947), P.Ra-ma-đi-ê (lập 1-1947, đổ

11-1947). M.Su-man (lần thứ nhất lập

11-1947, đổ 7-1948). A.Ma-ri (lập 7-1948, đổ 8-1948). M.Su-man (lần thứ hai lập

8-1948, đổ 1-1949). H.Cơi-i (lần thứ nhất lập 1-1949, đổ 10-1949). J.Mô-sơ (lập

5-10-1949, đổ 17-10-1949). R.May-e (lần thứ nhất lập 17-10-1949, đổ 24-10-1949). G.Bi-đôn (lần thứ hai lập 10-1949, đổ

6-1950). R.Ô-lơ-văng (lần thứ nhất lập

6-1950, đổ 2-1951). H.Cơi-i (lần thứ hai lập 2-1951, đổ 7-1951). R.Plơ-văng (lần thứ hai lập 8-1951, đổ 2-1952) F.Phô-rơ (lập

7-2-1952, đổ 27-2-1952). A.Pi-nay (lập

3-1952, đổ 5-1953). R.May-e (lần thứ hai lập 5-1953, đổ 6-1953). J.La-ni-en (lập

6-1953 đổ 6-1954), M.Phrăng-xơ (lập

6-1954 - đổ 2-1955).

(4) Từ năm 1947, Mỹ thi hành "chiến lược ngăn chặn" với mục tiêu "chặn đứng sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản", bao vây Liên Xô, chống lại phong trào giải phóng dân tộc mà Mỹ cho rằng do "chủ nghĩa cộng sản quốc tế xúi giục và điều khiển". Chiến lược này dựa trên độc quyền vũ khí nguyên tử của Mỹ và đặt trọng tâm là Tây Âu, nơi mà Pháp có vị trí rất quan trọng. Vì vậy Mỹ cố gắng tranh thủ Pháp. Ðây là nhân tố quyết định chính sách của Mỹ đối với cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Ðông Dương chuyển từ chỗ lúc đầu không ủng hộ đến chỗ ra tay giúp Pháp bằng viện trợ kinh tế và quân sự.

(Sách "Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 - Thắng lợi và bài học " Nxb Chính trị quốc gia - Hà Nội 2000, trang 80).

* Từ sau ngày ký kết hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ càng can thiệp mạnh vào Ðông Dương, tăng cường viện trợ cho Pháp nhằm kéo dài và mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên bán đảo này. Tháng 8-1953, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ xác định: "Trong điều kiện hiện nay, mọi giải pháp thương lượng đều có nghĩa là cuối cùng không những để mất Ðông Dương vào tay cộng sản, mà còn để mất Ðông - Nam Á. Mất Ðông Dương sẽ nguy kịch cho nền an ninh Mỹ". Trong chuyến sang Ðông Dương thị sát tại chỗ ngày 23-11-1953, Phó Tổng thống Mỹ Ních-xơn tuyên bố với các sĩ quan Pháp và bù nhìn rằng, trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể tiến hành đàm phán với Việt Minh.

*... Vào cuối tháng 3, đầu tháng

4-1954, phái "diều hâu" trong Nhà trắng và Lầu năm góc Mỹ đưa ra phương án cứu nguy cho quân đội Pháp tại mặt trận Ðiện Biên Phủ bằng một kế hoạch phiêu lưu: Không quân Mỹ ném bom vào các trận địa bao vây và tiến công của chủ lực đối phương quanh tập đoàn cứ điểm, lôi kéo Anh cùng một số nước thân Mỹ ở Ðông - Nam Á thực hiện quốc tế hóa cuộc chiến tranh ở Ðông Dương. Tuy nhiên...

(Sách "Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp" tập 2.Nxb QÐND. Hà Nội  - 1994. Trang 445 và 451).

(5) Lịch sử Ðảng bộ Miền Ðông Nam Bộ. Nxb Chính trị quốc gia - Hà Nội, 2003 - trang 148.

(6) Sách đã dẫn, trang 205.

(7) Văn kiện Ðảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, tập 1 (1945 - 1950). Nxb Sự Thật, Hà Nội 1986, trang 98.

(8) Ðến nửa đầu năm 1953, tổng số binh lực của Pháp và ngụy ở Ðông Dương 47 vạn bao gồm 36,5 vạn quân chính quy và 10,5 vạn phụ lực quân; được biên chế thành 176 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, gồm 85 tiểu đoàn Âu Phi và 91 tiểu đoàn ngụy. Lực lượng tuy đông nhưng hầu hết bị phân tán làm nhiệm vụ chiếm đóng, bị chôn chân trong các vị trí trên khắp các chiến trường. Trong 176 tiểu đoàn chỉ có 29 tiểu đoàn cơ động chiến lược (7 binh đoàn cơ động và 8 tiểu đoàn dù), 25 tiểu đoàn cơ động chiến thuật, còn lại 122 tiểu đoàn chiếm đóng. Trong số 29 tiểu đoàn cơ động chiến lược thì có tới 18 tiểu đoàn bị chôn chân chốt giữ ở một số vị trí Tây Bắc và Thượng Lào...

(9) Mấy vấn đề về chiến thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ. Nxb Khoa học Xã hội - Hà Nội, 1985 - trang 245.