ND - Nằm trong Hành lang kinh tế Ðông - Tây, đường 9 ngày nay trở thành tác nhân mạnh mẽ đối với sự chuyển biến về kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường, đồng thời cũng kéo theo những hệ lụy cho cuộc sống của các cộng đồng cư dân.
Ðó là thông điệp của cuộc trưng bày do PGS, TS Võ Quang Trọng - Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam - đưa ra trên những kết quả sưu tầm, nghiên cứu được thể hiện qua "ngôn ngữ" bảo tàng trong cuộc trưng bày "Ðường 9 - Cơ hội và thách thức". Ở Việt Nam, đây là cuộc trưng bày bảo tàng đầu tiên về những vấn đề kinh tế - xã hội đương đại của một con đường. Thêm lần nữa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thực hiện một trưng bày có tính "đột phá". Ðể có được cuộc trưng bày này, các cán bộ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cùng hai cán bộ thuộc Viện khoa học xã hội quốc gia Lào đã phải mất hơn ba năm lặn lội nghiên cứu sưu tầm ở hai tỉnh có đường 9 đi qua là Quảng Trị và Sa-va-na-khẹt. Họ gần như đã trở thành "thổ dân" của đường 9 - như lời TS. Bootheng, cán bộ đoàn nghiên cứu.
Theo chân các nhà dân tộc học, với góc nhìn nhân học, người xem như được sống với đường 9, với những vấn đề trăn trở của quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Bức tranh nhiều mầu sắc
Ðồng bào các dân tộc chuyển ra sinh sống sát cạnh mép đường ngày càng đông hơn. Nhà trệt đang thay thế cho nhà sàn. Tại mỗi thôn bản của người dân tộc đều đã có vài gia đình mở quầy tạp hóa nhỏ, đặt ngay trong nhà hoặc dưới gầm sàn nhà mình. Những cửa hiệu kiểu này cung cấp cho dân làng các nhu yếu phẩm thông thường: xà phòng, kem đánh răng, thuốc lá, bánh kẹo, mắm muối... và những mặt hàng phục vụ sản xuất: công cụ lao động, phân bón, thuốc trừ sâu... Bà Hồ Thị Hai, người Bru - Vân Kiều (huyện Ða Krông, Quảng Trị) - có một cửa hàng như thế, khoe rằng: "Tôi làm nhà trệt được bốn năm rồi, để người ta ra vào mua hàng thuận tiện. Nhà tôi bán bánh kẹo, pin đèn, thuốc lá..., chủ yếu là hàng Việt Nam, cũng có vài mặt hàng Trung Quốc...".
Việc sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hiện đại như điện thoại, ti-vi, đầu đĩa VCD/DVD, tủ lạnh, quạt máy... đã trở thành quen thuộc đối với nhiều dân làng dọc theo đường 9. Nghề dệt thủ công lâu đời trước đây chủ yếu phục vụ nhu cầu trong gia đình. Ngày nay, vải kiểu cổ truyền để may váy, áo, chăn, khăn... có bán rộng rãi ở các chợ và trung tâm thương mại.
Ðặc biệt, lớp trẻ tiếp nhận cái mới một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Thiếp mời đã được sử dụng rộng rãi, thay vì tập quán mời bằng lời như trước đây; tiền ngân hàng dùng làm lễ vật dẫn cưới thay thế bạc nén; ban nhạc sống thay cho hát đối đáp... Các cô dâu thích mặc váy dài và đội vương miện; chú rể mặc comple, thắt cà-vạt, đi giày da. Các dịch vụ "đi theo" như chụp ảnh, cho thuê bát đĩa, phông màn, bàn ghế, thuê xe ô-tô... cũng trở nên thông dụng.
Làm men rượu và ủ rượu là việc quen thuộc của hầu hết các cư dân vùng đường 9. Hiện nay, men chế từ một số loại củ, quả, lá cây và bột gạo của người Bru - Vân Kiều và người Tà Ôi được người Kinh mua về để nấu rượu bán. Ông Ðỗ Hạnh, 57 tuổi, người Kinh (thôn Long Thành, xã Tân Long, Hướng Hóa, Quảng Trị) kể: "Tôi học người dân tộc cách nấu rượu bằng gạo nếp và men lá. Dùng cả gạo nếp Việt và gạo nếp Lào. Rượu bán cho cả người Vân Kiều và người Kinh trong vùng". Từ năm 2006, một doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị bắt đầu mua rượu của dân, đem tinh lọc ra loại rượu "Tân Long" được ưa thích ở địa phương.
Hàng loạt dự án trồng rừng và cây công nghiệp của Nhà nước và quốc tế đã được đầu tư ở Quảng Trị. Cây cà-phê, cao-su và hồ tiêu phát triển ở đây sau chiến tranh vừa là một nguồn quan trọng góp phần tăng thu nhập cho các gia đình, nhất là các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, vừa là một giải pháp đem lại lợi ích về môi trường.
Hai nhà máy chế biến cà-phê ở tỉnh Quảng Trị được Thái Hòa Corporation, một tập đoàn kinh tế tư nhân lớn của Việt Nam, đầu tư. Sản phẩm cà-phê ở đây đã được tiêu thụ tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tập đoàn này cũng đang tiến hành dự án phát triển 12.000 ha cao-su ở tỉnh Sa-va-na-khẹt. Cũng ở Quảng Trị, Nhà máy nước tăng lực Super Horse và Nhà máy cao-su Camel đều 100% vốn Thái-lan đã có sản phẩm tiêu thụ ở Việt Nam và xuất khẩu.
Ðường 9 còn có ưu thế trong việc phục vụ du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch biển... Năm 2007, có 71.000 lượt du khách qua cửa khẩu Lao Bảo vào Quảng Trị (so với năm 2006 là 55.000 lượt khách), có 430.000 khách quốc tế đến Sa-va-na-khẹt (năm 2006 là 192.000). Người Lào và Thái-lan thích đi theo đường 9 sang miền trung Việt Nam tắm biển. Những di tích lịch sử và văn hóa ở Quảng Trị, Quảng Nam và Huế lại đặc biệt hấp dẫn khách Thái-lan.
Ở đầu phía đông của đường 9, thị xã Ðông Hà đang tiếp tục phát triển để trở thành một thành phố trong khi Sa-va-na-khẹt ở đầu phía tây là thành phố lớn thứ hai ở Lào và vẫn trên đà lớn mạnh thêm. Còn có ngày càng nhiều thị trấn, thị tứ mới mọc lên dọc theo tuyến đường này ở cả hai nước: Krông Klang, Lao Bảo (Việt Nam); Ðen-sa-vẳn, Mường Phin, Sê-tha-muôc (Lào)...
Còn đó nguy cơ và thách thức
Khắp dải đất này, nhiều hố bom cũ đã biến thành ao chứa nước, làm dịu bớt cơn khát trong những ngày gió Lào giữa vùng cát cháy Quảng Trị, nhưng nó cũng nhắc lại quá khứ chiến tranh chưa xa. Mặc dù những hoạt động rà phá bom mìn của Nhà nước, nhân dân và các tổ chức quốc tế như FSD (Thụy Ðiển), UXO LAO, RENEW (Cựu chiến binh Mỹ), MAG (Ðức)... đang góp phần làm trong lành môi trường và mang lại an toàn cho cuộc sống, người dân vẫn phải chung sống với bom mìn chưa phát nổ đang ẩn sâu trong lòng đất. Người xem trưng bày vẫn bàng hoàng khi nhìn tấm ảnh những đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên đùa nghịch trên vỏ quả bom cỡ lớn còn sót lại.
Sức ép của mưu sinh đã làm cho việc rà tìm phế liệu kim loại từ chiến tranh để lại trở thành nghề kiếm sống của một bộ phận cư dân, đặc biệt ở các làng Tân Hòa, Tân Hiệp (huyện Cam Lộ). Ðã xảy ra nhiều vụ tai nạn thương tâm do đào phải bom mìn chưa nổ. Nguy hiểm luôn rình rập những người làm rẫy, đào móng làm nhà, xây dựng các công trình, nhà máy, bệnh viện...
Ðường 9 bước vào thời kỳ phát triển mới, cuộc sống của các cộng đồng dân cư ở hai bên đường ngày càng có nhiều cái mới. Trong khi đó, âm nhạc cổ truyền đang dần bị lãng quên, nghề thủ công cổ truyền (dệt, rèn, đan lát) bị mai một, một số phong tục cổ truyền biến đổi và nhòe dần...
Nhiều gia đình người Bru - Vân Kiều và người Tri ở hai bên biên giới Việt Nam - Lào dựng bàn thờ lộ thiên phía trước cửa nhà như phong tục thờ thổ thần của người Kinh, mặc dù họ vẫn duy trì hình thức thờ cúng bản mệnh theo nếp cổ truyền. Nhiều người còn dùng những tờ lịch tranh hay poster ảnh diễn viên, người mẫu và câu đối để trang trí quanh bàn thờ trong nhà...
Một vật dụng cần thiết hằng ngày như chiếc gùi của người Bru - Vân Kiều nay đã phải đan bằng nan ni-lon thay cho dây mây, bởi trong rừng đã hiếm mây. Trong một phỏng vấn của đoàn nghiên cứu, ông Trầm, người Bru - Vân Kiều (Hướng Hóa, Quảng Trị) kể: "Tôi bắt đầu làm gùi kiểu này từ năm 2006, sau khi vào rừng nhiều lần nhưng không lấy được mây. Thấy ở chợ có bán loại dây ni-lon này dai và bền, tôi mua về đan. Từ đó đến nay, nhiều người đến tìm gặp tôi để đặt mua gùi".
Quá trình đô thị hóa ở vùng đường 9 làm nảy sinh những vấn đề xã hội. Từ nhiều nơi, người ta kéo về vùng đường 9 để mưu sinh bằng các hình thức kinh doanh, buôn bán, sản xuất... Theo tuyến đường này, việc di chuyển lao động đã diễn ra xuyên biên giới. Hiện có hàng nghìn lao động Việt Nam sang Lào (hơn 1.200 người) và sang Thái-lan (hơn 1.100 người); hơn 42.000 người Lào sang Thái-lan. Người Trung Quốc cũng tới vùng đường 9 làm ăn. Ðây là điều kiện thuận lợi cho những tệ nạn như buôn lậu và gian lận thương mại, ma túy, buôn bán phụ nữ, mại dâm và vấn đề HIV/AIDS nảy sinh... Chỉ riêng ở cửa khẩu Lao Bảo, số vụ buôn lậu phát hiện được đã tăng từ 108 vụ năm 2000 lên 279 vụ năm 2008. Vấn đề tai nạn giao thông trên đường 9 cũng ngày càng trở nên đáng quan ngại nhất là trong bối cảnh nhiều thôn bản đổ ra cư trú ven đường.
Các sản vật từ rừng ngày càng khan hiếm và dần biến mất. Việc săn bắt thú rừng như hoẵng, lợn, cheo, nhím... để cung cấp cho các nhà hàng làm những món đặc sản phục vụ thực khách trên tuyến đường này khiến cho thú rừng trong vùng chỉ còn ít ỏi, một số loài không còn thấy nữa. Ðến khoảng năm 1979, hổ, bò tót vẫn còn và sống gần những bản ở Sê Pôn cũng như một số nơi khác trên đất Lào; rừng cũng gần bản và rất nhiều cây to, nhưng nay thì đã trở thành đường và khu dân cư cả rồi. Ðó là nhận xét của một ông già người Lào. Cũng chẳng còn sẵn mật ong rừng hay dạ dày nhím để chế ra những bài thuốc dân gian của người Bru - Vân Kiều, người Tri hay người Ma Coong như trước đây.
Nạn rác thải công nghiệp và rác sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường, nhất là đối với khu vực thành thị, đã xuất hiện và đang phát triển nhanh ở vùng đường 9. Các nhà máy nước ở đây cũng mới chỉ cung cấp được nước sạch cho dân cư ở những khu đô thị lớn như Ðông Hà, Khe Sanh, Lao Bảo, Sa-va-na-khẹt. Tình trạng thiếu nước sinh hoạt vẫn còn là nỗi trăn trở chung của nhiều vùng khi mùa khô về.
Tương lai cất cánh
Xưa kia, đường 9 là con đường mòn kết hợp giữa đường bộ và đường sông, theo hướng đông - tây và nối vùng đồng bằng với miền núi đã được mô tả trong sách "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Ðôn từ thế kỷ 18. Từ đầu thế kỷ 20 đường 9 được xây dựng để phục vụ các mục đích kinh tế, chính trị và quân sự của chính quyền thuộc địa Pháp.
Thời kỳ chiến tranh, vùng đường 9 trở thành một chiến trường khốc liệt, nổi tiếng với hàng rào điện tử Mắc-na-ma-ra, với mặt trận đường 9 - Khe Sanh, với chiến dịch đường 9 - Nam Lào...
Ký ức chiến tranh còn chưa xa với các cựu chiến binh, với những người dân đứng tuổi đã định cư lâu đời dọc hai bên đường 9. Nhưng với những người chưa từng đến đường 9, đặc biệt là với thế hệ trẻ, những hiểu biết về quá khứ anh hùng của đường 9 tản mát và chưa đầy đủ. Bên cạnh phần trưng bày, còn có một "chủ đề mở" cho các em học sinh phổ thông, sinh viên và những người yêu thích chủ động tìm hiểu thêm về đường 9, gặp gỡ giao lưu với nhóm nghiên cứu về đường 9. Các nhà khoa học muốn thông qua cuộc trưng bày này để ôn lại quá khứ, nhìn rõ hiện tại và cũng hướng cho người xem đến với đường 9 trong tương lai.
Theo Hành lang kinh tế Ðông - Tây, đường 9 sẽ nối dài với quốc lộ số 1 của Việt Nam để đi tiếp về phía đông đến cảng Ðà Nẵng bên bờ Thái Bình Dương; hay vượt sông Mê Công bằng cây cầu Hữu nghị Lào - Thái số 2 ở phía tây, rồi băng qua bảy tỉnh vùng đông bắc Thái-lan, đi tiếp sang Mi-an-ma để tới cảng Ma-la-mi-ne bên bờ Ấn Ðộ Dương.
Người ta kỳ vọng rất nhiều vào tuyến Hành lang kinh tế Ðông - Tây với tổng chiều dài 1.450 km, bởi những lợi thế của nó trong việc thu hút đầu tư, thúc đẩy thương mại xuyên biên giới, phát triển kinh tế - xã hội, du lịch, tăng cường quan hệ hợp tác giữa các nước... Các cư dân ở tiểu vùng sông Mê Công cũng sẽ gần gũi và hiểu biết nhau hơn. Hành lang này vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu. Trong tương lai, khi những bất cập và hạn chế hiện nay (về cơ sở hạ tầng, thủ tục biên giới và hải quan, vấn đề tay lái nghịch, tốc độ ô-tô...) được khắc phục, tuyến hành lang sẽ nhộn nhịp và sôi động hơn, sẽ từ hành lang giao thông trở thành hành lang kinh tế thực thụ. Các quốc gia liên quan đều đang hướng tới mục tiêu đó.
Vẫn còn những bài toán phải giải quyết giữa phát triển và bảo tồn, giữa đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội hài hòa bền vững, nhưng đường 9 đang vượt qua những thách thức của mình để cất cánh với những vận hội mới.