Đưa pháo vào gần, ngắm bắn trực tiếp...!

Trong buổi gặp mặt truyền thống kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng tỉnh Trị Thiên-Huế, do Ban Liên lạc Cựu chiến binh Quân khu Trị Thiên tổ chức mới đây, tôi được gặp Thiếu tướng, Cựu chiến binh Đỗ Quốc Ân, nguyên Tư lệnh Binh chủng Pháo binh, chiến sĩ quân giải phóng miền nam năm xưa, nghe ông kể về một thời cùng đồng đội đưa pháo cỡ lớn - Đ74 122 mm vào tham gia chiến đấu và sức mạnh của lực lượng pháo binh trong Đại thắng mùa Xuân 1975.

Đưa "voi" vào cuộc nghi binh Dù ở tuổi 74, nhưng Thiếu tướng Đỗ Quốc Ân còn phong độ, nước da mồi, đôi mắt sáng và minh mẫn.

Đầu năm 1959, tròn 17 tuổi, anh thanh niên Đỗ Quốc Ân, quê xã Hòa Lộc, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa) làm đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ vào Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 (Quân khu Hữu Ngạn); sau đó được cử đi đào tạo sĩ quan tại Trường Sĩ quan Pháo binh.

Năm 1964, tốt nghiệp loại giỏi, thiếu úy Đỗ Quốc Ân được chọn ở lại Trường Đào tạo học viên Khoa bắn pháo.

Thiếu tướng Đỗ Quốc Ân hồ hởi kể: Tháng 10-1967, nhà trường cử tôi cùng chín cán bộ, giáo viên về Trung đoàn Pháo binh 675 để đi thực tế chiến trường. Ngay sau đó, từ Hòa Bình Trung đoàn hành quân vào Khe Sanh (Quảng Trị). Trận đầu tiên tôi cùng đơn vị tham gia chiến đấu đánh địch ở Làng Vây và Tà Cơn (tháng 2-1968); sau đó tham gia chiến đấu hàng chục trận, trong đó có chiến dịch đường 9-Nam Lào (năm 1971). Năm 1972, đơn vị cơ động vào Tây Nguyên đánh địch ở Đắc Tô, Tân Cảnh (Kon Tum), Đức Cơ, Chư Nghé (Gia Lai)...

Đầu năm 1975, bọn cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn cho rằng: Hướng tiến công chính của ta là ở miền đông Nam Bộ, nên chúng không thay đổi gì về thế bố trí chiến lược. Ở Tây Nguyên, địch phán đoán hướng tiến công chính của ta là vào Kon Tum, Plây Cu.

Tại đây, địch có quân đoàn bộ quân đoàn 2, sư đoàn 23, bảy liên đoàn biệt động quân, 36 tiểu đoàn bảo an, bốn thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép, một sư đoàn không quân... và có khoảng 230 khẩu pháo xe kéo các loại. Riêng ở thị xã Buôn Ma Thuột, địch có: Sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 23, bộ chỉ huy tiểu khu Đác Lắc, trung đoàn 53, một tiểu đoàn xe bọc thép và các lực lượng khoảng hơn 8.000 tên; có hơn 30 khẩu pháo 105, 155...

Tham gia chiến dịch Tây Nguyên, ta có năm sư đoàn và ba trung đoàn bộ binh, một trung đoàn đặc công, một trung đoàn tăng-thiết giáp, ba trung đoàn cao xạ, sáu trung đoàn và hai tiểu đoàn pháo binh và pháo cối mang vác trong các đơn vị bộ binh, cùng các đơn vị pháo cao xạ, đặc công, công binh, thông tin, vận tải... Thực hiện quyết tâm của trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị hoạt động nghi binh, kéo địch về phía Plây Cu và Kon Tum, rồi hình thành thế chia cắt bao vây, cô lập địch. Hướng Đác Lắc, ta tập trung lực lượng lớn hơn địch (riêng pháo binh, xe kéo ta gấp địch 1,5 lần), đánh Buôn Ma Thuột thật bất ngờ, làm cho địch không kịp đối phó... Cuối tháng 2 đầu tháng 3-1975, Trung đoàn 675 chúng tôi cùng Trung đoàn pháo binh 40 tuy đã bí mật cơ động xuống địa bàn Đác Lắc, nhưng mạng vô tuyến điện 2W, 15W của đơn vị vẫn hoạt động ở Kon Tum, Gia Lai để nghi binh lừa địch...

Để tham gia đánh trận then chốt vào thị xã Buôn Ma Thuột, đơn vị tôi cùng các đơn vị pháo binh tranh thủ ngày đêm làm công tác chuẩn bị chiến đấu như: trinh sát mục tiêu, chuẩn bị đường cơ động cho pháo, đo đạc tọa độ, chuẩn bị xe kéo, pháo, đạn... Ban đầu, khó khăn nhất là bộ phận đi trước chuẩn bị chiến trường, vì lúc đó không có người dẫn đường, nên anh em phải tự tìm đường, cắt góc phương vị mà đi; trong khi địch thường xuyên tung thám báo, biệt kích trên các địa bàn để nắm hoạt động của ta; hầu hết các điểm cao ở ven thị xã thường có các chốt của địch, gần các ấp chiến lược và cứ điểm tiền duyên của địch, nếu sơ xảy sẽ bị địch phát hiện... Lúc đó, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 675) chúng tôi được biên chế tám khẩu pháo xe kéo Đ74 nòng dài 122 mm (mỗi khẩu pháo nặng hơn bốn tấn, tầm bắn xa nhất là 24 km). Là Tiểu đoàn trưởng, tôi được Trung đoàn giao chỉ huy bộ phận đi trước, phối hợp cùng cán bộ quân báo và bộ binh đi trinh sát mục tiêu.

Mỗi người, ngoài bộ quân phục bạc màu, tấm bản đồ địa hình tác chiến để trong áo trước ngực, mang theo súng, một chiếc địa bàn, dây lưng đeo dao găm, lựu đạn, kèm theo biđông nước suối..., túi quần còn đựng thêm lương khô. Ngày nghỉ, đêm đi. Sau ba ngày vượt chặng đường hơn 50 km, chúng tôi tới quả đồi nằm ở phía bắc, cách trung tâm thị xã Buôn Ma Thuột gần hai km.

Tại đây, ban ngày chúng tôi lợi dụng địa hình, địa vật ẩn nấp trong các bụi cây, đợi đến trưa, người dân đi làm nương về, mới bí mật nhô đầu lên quan sát, xác định các mục tiêu cần bắn như: Trung tâm chỉ huy khu tập kết xe tăng, trận địa pháo binh, kho tàng của địch...

Bão lửa ám ảnh đối phương Sớm ngày 10-3-1975, cùng Trung đoàn Đặc công 198 nổ súng đánh sân bay thị xã, khu kho Mai Hắc Đế; Cụm pháo binh 5 đã dùng pháo ĐKB và H12 bắn phá sở chỉ huy sư đoàn 23 và tiểu khu địch...

Do trời sương mù, nên mãi hơn bảy giờ sáng, đơn vị chúng tôi cùng các cụm pháo binh chiến dịch mới được lệnh của trên đồng loạt bắn chuẩn bị trong vòng 120 phút vào các mục tiêu và kiềm chế trận địa pháo binh địch, chi viện bộ binh, xe tăng của ta đánh chiếm các mục tiêu. Sáng 11-3, pháo binh tiếp tục chi viện cho bộ binh, xe tăng của ta đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23. Đến 11 giờ cùng ngày, quân ta làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột...

Cuối tháng 3-1975, được lệnh tham giải phóng Sài Gòn, Trung đoàn 675 đã hành quân thần tốc theo quốc lộ 14, qua tỉnh Bình Long, Phước Long, tập kết ở khu đồn điền cao-su Phú Riềng. Sáng 29-4, đơn vị chúng tôi được lệnh chi viện hỏa lực cho Sư đoàn 320 tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch tại căn cứ Đồng Dù (trong đó có tên chuẩn tướng-sư trưởng Lý Tòng Bá). Sau đó, đơn vị cơ động về khu vực Tân Thạnh Đông, huyện Hóc Môn để triển khai đội hình chiến đấu. Đài quan sát của Tiểu đoàn 2 chúng tôi bảy giờ tối đã có mặt trên sân thượng ngôi nhà ba tầng, sát hàng rào sân bay Tân Sơn Nhất để sẵn sàng chỉ huy đơn vị bắn vào các mục tiêu trong sân bay và Bộ Tổng tham mưu ngụy...

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã huy động 20 trung, lữ đoàn pháo binh xe kéo và tám tiểu đoàn pháo binh xe kéo độc lập, cùng hàng nghìn khẩu pháo mang vác trong đội hình các đơn vị bộ binh. Nhiều đơn vị đã lấy pháo, đạn, xe ô-tô...

thu được của địch kịp thời sử dụng để đánh địch. Trong đó, Quân đoàn 2 huy động được 42/103 khẩu pháo, 56/201 xe, 7.191/10.036 đạn pháo, xe kéo lấy được của địch; Quân đoàn 3 đã thay thế hầu hết pháo lựu 122 mm bằng pháo 105 và 155 mm lấy được của địch. Các đơn vị pháo binh cơ động lực lượng, triển khai chuẩn bị chiến đấu nhanh; cách đánh linh hoạt, sáng tạo trong tác chiến hiệp đồng binh chủng; chi viện bộ binh, xe tăng đánh các trận then chốt với mật độ pháo binh cao, có hiệu quả, dứt điểm nhanh.

Trong các trận đánh, cùng tập trung hỏa lực vào các mục tiêu quan trọng như: khu vực cửa mở, sở chỉ huy, sân bay..., các cụm pháo binh chiến dịch và quân đoàn còn phát huy tầm bắn sâu vào trung tâm phòng ngự của địch, chế áp các mục tiêu chủ yếu bên trong, chi viện các binh đoàn thọc sâu vào nội đô. Trong đó, từ ngày 14 đến 25-4-1975, pháo binh Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 tổ chức bắn chế áp làm tê liệt nhiều trận địa pháo binh địch (sư đoàn 25) từ Trảng Bom đến Củ Chi...

Đáng nói là, trước khi ta tiến công Sài Gòn, sân bay Biên Hòa và Tân Sơn Nhất trung bình mỗi ngày có hàng trăm lượt máy bay địch từ đây cất cánh mang bom đánh phá vào đội hình của ta trên các hướng.

Nhưng từ khi Đại đội 26 pháo 130 của Miền (B2) đã chịu đựng gian khổ, hy sinh, đưa được ba khẩu pháo vào gần sân bay Biên Hòa, được một tiểu đoàn pháo cao xạ bảo vệ, Đại đội 26 đã dùng pháo bắn phá đường băng, bãi đỗ, kho tàng..., nên đã khống chế được hoạt động của sân bay này. Từ ngày 12 đến 25-4, sân bay Biên Hòa chỉ còn bốn đến năm lần cất cánh/ngày. Cùng với đó, Lữ đoàn Pháo binh 24 (Quân đoàn 4) phối hợp bắn phá vào các mục tiêu quan trọng trong sân bay như: sở chỉ huy sư đoàn 3 không quân và sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy, nên đến tối ngày 28-4, sân bay Biên Hòa hoàn toàn bị tê liệt.

Tiếp đó, ngày 28-4, pháo binh ta khống chế sân bay Tân Sơn Nhất và từ 29-4, ta sử dụng 28 khẩu pháo các loại (pháo binh của chiến dịch và Quân đoàn 1, 2, 3) bắn 1.200 viên đạn vào sân bay, làm tê liệt hoạt động của sân bay này vào sáng 30-4-1975. Nhất là, trong các chiến dịch, phát huy cách đánh kiên quyết, sáng tạo, nhiều đơn vị đã đưa pháo nòng dài, lựu pháo vào gần mục tiêu ngắm bắn trực tiếp để chi viện cho bộ binh, uy lực mạnh, khiến quân địch khiếp sợ... Khi có lệnh: "bắn!", đứng trên đài quan sát, chúng tôi chưa kịp nghe tiếng nổ đầu nòng pháo, thì đã thấy mục tiêu lô cốt địch cách đó không xa (chừng 800 đến 1.000 m) chớp quầng lửa, rồi bị hất tung lên cao, gỗ, đất, đá bay tứ phía!... Bởi thế, nhiều lính ngụy Sài Gòn sau trận đánh bị ta bắt làm tù binh đã thú nhận: "Sợ nhất là Việt cộng đưa pháo vào gần, ngắm bắn trực tiếp... !" - Thiếu tướng Đỗ Quốc Ân, cho biết.

Có thể khẳng định, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, lực lượng pháo binh đã phát huy vai trò là hỏa lực mặt đất chủ yếu của lục quân và quân đội ta, trút "bão lửa" lên đầu thù, xứng đáng với truyền thống "Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng" của Bộ đội Pháo binh anh hùng, góp phần cùng quân và dân ta làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975.

Có thể bạn quan tâm