Ðời sống người dân làm muối cần được quan tâm

Sản xuất muối tại huyện Cam Ranh, Khánh Hòa.
Sản xuất muối tại huyện Cam Ranh, Khánh Hòa.

Những điều trăn trở

Có một câu nói về người lao động nghề muối như sau: "Một người lo được cho cuộc sống bình thường của 1.000 người, nhưng 1.000 người không lo nổi cuộc sống cho một người". Bởi lẽ, xuất phát từ đặc điểm tiêu dùng muối, lượng tiêu thụ muối cho mỗi người trong ngày chỉ trên dưới 10 gam, so với số lượng nhu cầu hàng trăm gam các loại thực phẩm tiêu dùng khác. Tỷ lệ 1/1.000 là con số hơn 80 nghìn diêm dân so với hơn 80 triệu người Việt Nam. Đời sống của phần lớn diêm dân đang rất khó khăn và kéo dài nhiều thập kỷ nay.

Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO, với sự cam kết hội nhập đầy đủ và toàn diện nền kinh tế thị trường quốc tế, chắc chắn bộ phận dân cư nghề muối không thể tránh khỏi những khó khăn  lớn hơn. Vì vậy, tìm hiểu căn nguyên và đề ra giải pháp khả thi để tạo lối thoát, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống vật chất và văn hóa, tinh thần cho người dân làm muối càng nặng nề và cấp bách hơn bao giờ hết để ngành muối tiếp tục đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường cạnh tranh thời hội nhập.

Ði tìm nguyên nhân

1. Ðặc điểm lớn nhất và cũng là hạn chế của ngành muối Việt Nam hiện tại là phần lớn diện tích, sản lượng, lao động đang duy trì phương pháp sản xuất muối truyền thống đã có từ hàng trăm năm nay với phương tiện lạc hậu, thao tác thủ công, quy mô nhỏ, phân tán. Thậm chí, sản xuất muối phơi cát ở phía bắc là "độc nhất vô nhị" trên thế giới hiện nay. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học nhằm giải phóng sức lao động, tăng năng suất lao động hàng chục năm qua đều bất khả thi do công nghệ và điều kiện sản xuất quy định. Vì sức người có giới hạn nên phải bố trí 15-20 lao động/ha sản xuất, dẫn đến năng suất lao động rất thấp: 3-5 tấn/lao động/năm tùy theo năm được mùa hay mất mùa. Ðã thế, do chất lượng muối thấp, tiêu thụ sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn, thu nhập không  có tích lũy, lấy công làm lãi, người lao động không đủ trang trải cho sinh hoạt hằng ngày... Ðây chính là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến đời sống khó khăn kéo dài của lao động nghề muối từ nhiều năm qua.

Cũng tương tự như vậy, khu vực sản xuất muối phơi nước phân tán phía nam, đặc biệt là vùng thuộc các tỉnh miền Tây Nam Bộ, do vụ sản xuất chỉ có 4 tháng/năm, năng suất diện tích và lao động đều thấp (26 tấn/ha và 6,7 tấn/lao động) nên cũng chung một hoàn cảnh khó khăn như vậy.

2. Sự chênh lệch lớn về năng suất lao động giữa các vùng miền sản xuất muối như vùng tài nguyên muối có lợi thế so sánh thuộc các tỉnh cực nam Trung Bộ, đặc biệt là địa bàn Ninh Thuận và bắc Bình Thuận, do vùng này mùa khô kéo dài, lượng mưa thấp (thấp nhất nước), lượng bốc hơi và độ mặn nước biển cao (cao nhất nước), nên năng suất các đồng muối tập trung, được áp dụng công nghệ sản xuất muối tiên tiến có thể đạt 150 tấn/ha/năm, năm được mùa hơn 200 tấn/ha/năm. Theo đó năng suất lao động hiện tại đã đạt 255 tấn/lao động/năm, nếu được đầu tư thêm kỹ thuật tiên tiến và trang bị cơ giới đồng bộ, năng suất lao động sẽ tăng gấp đôi, gấp ba, với lợi thế chiếm 38% sản lượng cả nước, giá thành rẻ, chất lượng cao, đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo áp lực trực tiếp, khống chế và đẩy giá muối của khu vực sản xuất cá thể xuống thấp và tiêu thụ chậm.

3. Nguyên nhân thứ ba đó là việc thực thi các chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với ngành muối và người dân hiệu lực thấp, bất cập và thiếu đồng bộ, như chính sách mua muối theo giá sàn, chính sách cho dân vay vào thời điểm giáp vụ để mua sắm  vật tư, chuẩn bị sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất qua chủ trương xây dựng các mô hình hợp tác xã (HTX) muối kiểu mới, đầu tư chiều sâu nâng cấp cơ sở hạ tầng sản xuất để tăng năng suất, sản lượng..., tất cả đều chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ ràng và tích cực.

Sự vào cuộc của "bốn nhà" để lo đầu ra cho người dân làm muối xem ra chỉ là hình thức! Thí dụ: việc giao cho UBND các địa phương công bố giá sàn mua muối cho diêm dân ngay từ đầu vụ sản xuất là không  tưởng vì UBND không đủ thông tin và căn cứ để đưa ra giá sàn hợp lý có tương quan với giá muối các địa phương bạn trên cùng khu vực và cả nước.

Lối thoát nào cho diêm dân?

Chính phủ đã có cam kết trước nhân dân và cộng đồng quốc tế đến năm 2010 nước ta không còn

hộ nghèo, chắc chắn khu vực diêm dân nghèo cũng cần được quan tâm thỏa đáng. Như vậy  đây sẽ là một bài toán lớn cần có lời giải mà trách nhiệm đòi hỏi phải có sự cộng sức của nhiều cơ quan hữu quan, phải có một chương trình hoặc đề án nghiêm túc cho riêng lĩnh vực này. Nên chăng, điều quan trọng nhất là sớm có đề án chuyển dịch cơ cấu ở các vùng sản xuất muối có năng suất, chất lượng thấp, giá thành cao, không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội trên cơ sở khảo sát đánh giá lại tài nguyên thiên nhiên, đời sống diêm dân, mạnh dạn chuyển các cánh đồng muối sang sử dụng vào các mục đích khác có hiệu quả hơn nếu không có khả năng cải tạo, đầu tư kỹ thuật tiên tiến, tạo năng suất lao động hơn 50 tấn/lao động để có thu nhập bình quân không dưới 6 triệu đồng/lao động/năm. Ðộng thái này có liên quan đến 80% số lao động nghề muối, 52%  sản lượng muối, 55% diện tích sản xuất muối hiện có nên

chương trình phải được thực hiện từng bước, trong vòng mười năm, quyết liệt nhưng bài bản và thận trọng. Mặt khác, trong thời gian chờ đợi chuyển dịch cơ cấu sản xuất, vẫn phải tiếp tục có các giải pháp tình thế nhằm bảo đảm đời sống cho người dân bằng cách cải thiện năng suất lao động và cần tìm cơ chế thích hợp để giải quyết đầu ra cho diêm dân với một số việc cần làm.

Thứ nhất, tiếp tục và kiên trì  thực hiện giá sàn mua muối cho diêm dân theo Quyết định 153 của Thủ tướng Chính phủ, nhưng cần điều chỉnh cơ chế điều hành từ một trung tâm dự báo, nên chăng trung tâm chỉ huy đó thuộc Cục Chế biến nông - lâm sản và nghề muối - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để quyết định và công bố giá sàn từ đầu vụ sản xuất sau khi có sự tham khảo với cơ quan giá các địa phương. Giá sàn này thống nhất cho một khu vực như:  khu vực muối phơi cát phía bắc, khu vực muối phơi nước phân tán miền trung, khu vực muối  phơi nước phân tán Nam Bộ... mà không giao cho UBND các địa phương như trước đây vì các UBND không có điều kiện tập hợp, xử lý thông tin để đưa ra quyết định giá sàn có lợi cho người lao động, phù hợp với mặt bằng giá thị trường.

Thứ hai, tình trạng "tự  sản tự tiêu" kéo dài của hàng chục nghìn diêm dân sẽ trở thành hàng chục nghìn đầu mối mua bán, vì cuộc sống bức bách, vì tâm lý sợ không tiêu thụ được phải bán sản phẩm bằng mọi giá để trang trải cho chi tiêu hằng ngày và do không được

cung cấp thông tin là nguyên nhân để người làm muối bị lợi dụng, bị ép cấp, ép giá là không tránh khỏi và dẫn đến tình trạng "bán muối non" khá phổ biến hiện nay. Ðể nhận được giá bán đúng giá trị theo giá sàn, muối của người lao động phải được tiêu thụ qua kênh HTX, vì vậy củng cố, hoàn thiện điều lệ tổ chức và hoạt động HTX muối theo hướng HTX cổ phần, người sản xuất là cổ đông, HTX có pháp nhân được vay vốn ngân hàng, thực hiện hai chức năng chính là dịch vụ cung ứng vật tư sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho người lao động. Như vậy, HTX không chỉ là đầu mối được ủy quyền ký các hợp đồng tiêu thụ muối với các đối tác mà còn là cầu nối giữa người lao động với các tổ chức tín dụng  cho vay chính sách, phát động và ứng dụng các kỹ thuật  sản xuất tiên tiến đến người dân để họ được hưởng lợi từ các chủ trương đã có mà cho đến nay vẫn chưa được thụ hưởng.

Thứ ba, cần sớm tổ chức triển khai chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất (chuyển diện tích sản xuất sang ngành nghề khác có hiệu quả hơn, chuyển công nghệ sản xuất để có năng suất lao động cao hơn, đầu tư chiều sâu nâng cấp công nghệ và quy mô sản xuất để cải thiện chất lượng sản phẩm...) theo Quyết định số 161/2007/QÐ-TTg ngày 5-2-2007, "Phê duyệt Quy hoạch sản xuất muối đến năm 2010 và năm 2020". Chủ trương này là một quyết sách quan trọng nằm trong chiến lược xây dựng và phát triển ngành muối theo hướng công nghiệp và hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập thời kỳ tới, đồng thời là hướng mở để tạo điều kiện cho người lao động ở vùng sản xuất khó khăn có cơ hội chuyển đổi, lựa chọn ngành nghề thích hợp. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề rất lớn, liên quan đến hàng nghìn ha diện tích sản xuất được lựa chọn chuyển ngành nghề để có hiệu quả khai thác thiết thực, tránh lãng phí quỹ đất, đồng thời hàng chục nghìn lao động nghề muối truyền thống phải được đặc biệt quan tâm, bố trí việc làm, đào tạo nghề và ổn định cuộc sống tốt hơn. Mặt khác, khi thực hiện chủ trương này sẽ xuất hiện sự mất cân đối lớn về cung cầu trên thị trường nếu không được phối hợp tốt và hài hòa giữa tốc độ phát triển diện tích sản xuất mới với tốc độ chuyển diện tích sản xuất cũ để vừa bù phần sản lượng giảm đi do thu hẹp sản xuất, vừa thỏa mãn nhu cầu muối xã hội được dự báo có tốc độ tăng nhanh trong thời kỳ tới (năm 2015 nhu cầu cần 1,5 triệu tấn, năm 2020 nhu cầu cần 2 triệu tấn), hiện tại cả nước mới sản xuất được khoảng 750 nghìn tấn/năm, theo  Quyết định 161/2007/QÐ-TTg cần phải xây dựng mới khoảng 7.030 ha. Vì vậy, đây phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng  được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển diện tích sản xuất mới, phải được tổ chức như là một đề án kinh tế - xã hội trọng điểm, đồng bộ và toàn diện của ngành muối từ nay cho đến năm 2015, được gắn trách nhiệm với các cấp, các ngành liên quan và của toàn xã hội.

Thực hiện tốt chủ trương quan trọng trên là giải pháp tích cực, có tính đột phá trong tư duy và lãnh đạo điều hành, là con đường rõ nhất để có thể chấm dứt tình trạng lao động nghề muối cần cù, chịu thương, chịu khó, quanh năm "một nắng hai sương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" mà cái nghèo vẫn không buông tha. Tạo cho họ có cơ hội được hưởng cuộc sống tốt đẹp theo mặt bằng phát triển của cả nước như định hướng và mục tiêu của Ðảng và Nhà nước ta.

Có thể bạn quan tâm